Sự khan hiếm nước đang nổi lên như một mối đe dọa kinh tế toàn cầu
Khan hiếm nước được xem là yếu tố quan trọng nhất và có khả năng gây tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng khí hậu, trong đó các nền kinh tế lớn của châu Á như Ấn Độ và Trung Quốc có thể sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Một người dân đang lùa đàn cừu trên lòng hồ chứa nước vào ngày 25/5/2023 tại Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc
Arunabha Ghosh, Giám đốc điều hành của Hội đồng Năng lượng, Môi trường và Nước (CEEW) cho biết, châu Á là một trung tâm công nghiệp đang có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất và điều này sẽ đòi hỏi một lượng nước dồi dào.
“Không chỉ những ngành công nghiệp cũ như sản xuất thép mà cả những ngành mới hơn như sản xuất chip bán dẫn và quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch sẽ cần rất nhiều nước. Châu Á là động cơ tăng trưởng của thế giới và những ngành công nghiệp này là động lực mới cho tăng trưởng kinh tế của khu vực”, ông cho biết.
Nhu cầu nước ngọt toàn cầu dự kiến sẽ vượt xa nguồn cung từ 40 - 50% vào năm 2030. Ông Arunabha Ghosh cảnh báo rằng không nên xem tình trạng khan hiếm nước là vấn đề của ngành mà là vấn đề “vượt qua toàn bộ nền kinh tế”.
“Các nền kinh tế châu Á phải hiểu rằng đó là lợi ích chung của khu vực và lợi ích của chính họ là giảm thiểu rủi ro xảy ra nhằm ngăn chặn những cú sốc kinh tế mà tình trạng khan hiếm nước nghiêm trọng sẽ gây ra”, ông cho biết.
Ấn Độ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất do khan hiếm nước. Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, mặc dù chiếm 18% dân số thế giới, nhưng quốc gia này chỉ có đủ nguồn nước cho 4% dân số, do đó đây sẽ là quốc gia thiếu nước nhất trên thế giới.
Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều vào mùa gió mùa để đáp ứng nhu cầu nước, nhưng biến đổi khí hậu đã gây ra lũ lụt và hạn hán tấn công quốc gia này nhiều hơn, đồng thời làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu nước.
Trung Quốc đang ở trong tình trạng tương tự
Theo tổ chức tư vấn độc lập Lowy Institute, khoảng 80 - 90% nước ngầm của Trung Quốc không phù hợp để tiêu thụ, trong khi một nửa số tầng ngậm nước của họ quá ô nhiễm để sử dụng cho công nghiệp và nông nghiệp. Trong khi 50% nước sông ở đây cũng không thích hợp để uống và một nửa trong số đó cũng không an toàn cho nông nghiệp.
Mặc dù nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã đạt được tiến bộ trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch, nhưng hệ thống điện của nước này vẫn chủ yếu phụ thuộc vào than đá. Và nếu không có nước, sẽ không có than.
“Nước là nguyên liệu đầu vào thiết yếu để phát điện của các nhà máy điện than, và nếu nước trở nên khan hiếm hơn hoặc không có sẵn để phát điện, thì nhà máy điện than sẽ trở nên kém hiệu quả”, ông Ghosh nhấn mạnh.
Các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực cũng ở trong tình trạng tương tự, nhưng cuộc khủng hoảng nước của họ có thể khó giải quyết hơn.
Shanshan Wang, lãnh đạo doanh nghiệp nước Singapore tại công ty tư vấn bền vững Arup cho biết, các quốc gia như Philippines không có đặc quyền và khả năng chống chịu kém, vì vậy có “sự mất cân bằng lớn trong cuộc khủng hoảng nước mà chúng ta đang phải đối mặt”.
Ấn Độ và Trung Quốc gần biển và sông, và bị đe dọa nhiều hơn bởi mực nước biển dâng cao, nhưng họ có đủ khả năng mua công nghệ và đổi mới để có hệ thống trữ nước tốt hơn.
Trong khi đó, Wayne Middleton, lãnh đạo doanh nghiệp nước Úc của Arup cho biết, “chúng tôi đã không nhận ra giá trị của hệ thống sông ngòi và chúng tôi đã khai thác chúng cho mục đích công nghiệp và nông nghiệp. Chúng tôi chỉ mới thấy những thiệt hại đã gây ra gần đây”.
Các quốc gia ở phương Tây có thể sẽ không bị ảnh hưởng bởi những rủi ro liên quan đến cuộc khủng hoảng nước này. Vấn đề nước của châu Âu dự kiến sẽ trở nên tồi tệ hơn khi các nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm do tình trạng khẩn cấp về khí hậu ngày càng sâu sắc. Khu vực này có nhiệt độ tăng cao vào mùa xuân, sau khi trải qua một đợt nắng nóng mùa đông gây thiệt hại cho các con sông và dốc trượt tuyết.
Các ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất
Đài Loan (Trung Quốc) một lần nữa phải chống chọi với tình trạng thiếu nước trong chưa đầy hai năm sau khi chiến đấu với đợt hạn hán tồi tệ nhất trong một thế kỷ. Là thị trường công nghiệp sản xuất chất bán dẫn lớn nhất châu Á, họ cần một lượng nước khổng lồ để cung cấp năng lượng cho các nhà máy và sản xuất chip bán dẫn đi vào các thiết bị kỹ thuật số và việc cung cấp có thể bị cản trở nếu xảy ra tình trạng thiếu nước.
“Đài Loan sử dụng nhiều thủy điện và họ luôn phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan về việc có nên tích trữ nước cho ngành công nghiệp bán dẫn của mình sử dụng hay nên xả nước để họ có thể có thêm thủy điện”, bà Shanshan Wang nhấn mạnh.
Tuy nhiên, mặc dù nhiều ngành sản xuất cần nước để hoạt động, nhưng nước không thực sự được sử dụng hết và có thể được tái chế.
“Sự khan hiếm nước không phải là vấn đề đặc biệt đối với các ngành công nghiệp này vì rất nhiều nước có thể được tái chế. Quá trình này gây ô nhiễm nước và nhiều ngành công nghiệp có thể chỉ muốn đổ nước trực tiếp trở lại hệ sinh thái thay vì làm sạch và tái sử dụng nó”, bà cho biết.
Nước cũng đang đóng một vai trò to lớn trong quá trình chuyển đổi năng lượng theo kế hoạch và việc thiếu nước có thể cản trở mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của các quốc gia. Năm 2022, Trung Quốc đã trải qua đợt nắng nóng và hạn hán tồi tệ nhất trong sáu thập kỷ. Nhiệt độ tăng cao làm khô cạn các khu vực của sông Dương Tử, cản trở khả năng sản xuất của thủy điện - nguồn năng lượng lớn thứ hai của đất nước.
Để giảm bớt rủi ro về năng lượng, nước này đã phê duyệt số lượng nhà máy nhiệt điện than mới cao nhất kể từ năm 2015 vào năm ngoái. Trung Quốc đã cho phép công suất điện than mới đạt 106 gigawatt vào năm 2022, cao gấp 4 lần so với một năm trước đó và tương đương với 100 nhà máy nhiệt điện lớn.
“Chúng tôi cần một quá trình chuyển đổi năng lượng lớn sang năng lượng tái tạo để cung cấp năng lượng cho các nguồn cung cấp nước mới của chúng tôi và chúng tôi cần các nguồn cung cấp nước luôn sẵn sàng để đảm bảo an ninh năng lượng”, ông Wayne Middleton cho biết.
Các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp cũng có thể thấy sản lượng giảm đáng kể và an ninh lương thực sẽ gặp nhiều rủi ro hơn.
Theo Bộ Nông nghiệp, Ngư nghiệp và Lâm nghiệp của Úc, giá trị sản xuất nông nghiệp dự kiến sẽ giảm 14%, đạt 79 tỷ USD trong giai đoạn 2023-2024. Điều này là do điều kiện khô hạn hơn dự kiến sẽ làm giảm năng suất cây trồng từ mức kỷ lục vào năm 2022 đến năm 2023.
“Chúng tôi chắc chắn có thể xây dựng các nguồn cung cấp nước mới và cung cấp nước cho các ngành công nghiệp, khách hàng và thành phố ở Úc, nhưng chúng tôi thực sự không thể duy trì đủ nước trong thời gian hạn hán kéo dài hơn…Tất nhiên chúng ta phải cung cấp nước cho các thành phố, nền kinh tế lớn và cộng đồng của chúng ta, nhưng điều đó để lại rủi ro ngày càng tăng đối với sản xuất lương thực và ngành nông nghiệp”, ông Wayne Middleton cho biết.