SỬA ĐỔI LUẬT TÒA ÁN NHÂN DÂN: TIẾP TỤC RÀ SOÁT ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Tiếp tục Phiên họp thứ 26, chiều 18/9, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Báo cáo thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát và đề xuất sửa đổi một số điều của các luật có liên quan để bảo đảm tính liên thông, đồng bộ, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Sửa đổi Luật Tòa án nhân dân nhằm cụ thể hóa Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thừa ủy quyền của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến trình bày Tờ trình về Dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Tờ trình đã nêu sự cần thiết sửa đổi luật nhằm cụ thể hóa Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục đích sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân để tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân; xây dựng hệ thống Tòa án chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Dự thảo Luật gồm 151 Điều được bố cục thành 09 chương; trong đó, bổ sung 51 điều mới, sửa đổi 93 điều, giữ nguyên: 07 điều. So với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Dự thảo luật giảm 02 chương, tăng thêm 54 điều. Dự thảo Luật đã bám sát mục đích, quan điểm chỉ đạo và cụ thể hóa 06 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 89/2023/QH15 ngày 02/6/2023.
Dự thảo Luật kế thừa những quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 còn phù hợp, đồng thời, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, tập trung vào những nội dung lớn như: Quy định nội hàm quyền tư pháp Về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án; Về hoàn thiện tổ chức bộ máy của Tòa án; Về đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án; Thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia trên cơ sở bổ sung chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm độc lập tư pháp; Đổi mới chế định nhân dân tham gia xét xử…
Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến cũng cho biết, quá trình xây dựng dự án Luật, đa số ý kiến tán thành với nội dung của Dự thảo luật. Tuy nhiên, dự thảo có một số vấn đề mới, quan trọng nhưng ý kiến còn khác nhau, Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn xây dựng dự thảo theo đa số ý kiến và xin báo cáo Quốc hội xin ý kiến về nội hàm quyền tư pháp (Điều 2); Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ (Điều 15); Về Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt (các Điều 61, 62); Về Hội đồng tư pháp quốc gia (Chương III); Về nhiệm kỳ của Thẩm phán (Điều 100).
Tiếp tục rà soát, đề xuất sửa đổi, đảm bảo tính thống nhất với hệ thống pháp luật.
Báo cáo thẩm tra dự án luật do Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga trình bày nêu rõ: Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 2014; Hồ sơ dự án Luật cơ bản đã đủ các tài liệu theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị TANDTC tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo đúng quy định trình UBTVQH, Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Về sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với chủ trương, đường lối của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, Ủy ban Tư pháp nhận thấy, dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng ; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Để bảo đảm tính liên thông, đồng bộ, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, việc sửa đổi Luật này có thể phải sửa một số quy định của luật khác có liên quan (như: các luật tố tụng, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành án dân sự,...); đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát và đề xuất sửa đổi một số điều của các luật có liên quan.
Ngoài ra, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 11-KH/TW ngày 28/11/2022 để thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết 27), trong đó giao Ban cán sự Đảng TANDTC chủ trì xây dựng 05 Đề án. Các Đề án này có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các Tòa án. Đề nghị TANDTC cập nhật thêm về tiến độ và kết quả triển khai thực hiện 05 Đề án nêu trên phục vụ cho việc xây dựng dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cũng thẩm tra các nội dung Tòa án nhân dân tối cao xin ý kiến. Trong đó, về nội hàm quyền tư pháp, Ủy ban Tư pháp có 02 loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng chưa nên quy định nội hàm quyền tư pháp trong dự thảo Luật, mà chỉ nên quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp. Loại ý kiến thứ hai tán thành cần quy định nội hàm quyền tư pháp trong dự thảo Luật, vì làm rõ được nội hàm quyền tư pháp sẽ là cơ sở để quy định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án.
Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ (Điều 15), đa số ý kiến tán thành với đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao về việc Tòa án không có nghĩa vụ (trách nhiệm) thu thập chứng cứ.
Đối với quy định về Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt (điểm đ khoản 1 Điều 4; Điều 62 và Điều 63) của dự thảo luật, Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật và cho rằng việc thành lập Tòa án này để giải quyết một số loại vụ việc đặc thù, có tính chuyên môn sâu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, Tờ trình và dự thảo Luật chưa làm rõ định hướng sẽ thành lập TAND sơ thẩm chuyên biệt tại địa hạt pháp lý nào; số lượng bao nhiêu; cơ cấu tổ chức của Tòa án này như thế nào.
Về Hội đồng tư pháp quốc gia, đa số ý kiến của Ủy ban Tư pháp đề nghị không thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia, mà giữ quy định về Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia. Một số ý kiến thống nhất với dự thảo Luật về thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia trên cơ sở kế thừa về tổ chức và nhiệm vụ hiện nay của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia và bổ sung một số nhiệm vụ mới để bảo đảm cho Hội đồng hoạt động hiệu quả; trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn giám sát việc phân bổ biên chế, kinh phí, nguồn lực cho các Tòa án; bảo vệ Thẩm phán...
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp cũng thẩm tra một số nội dung quan trong khác của dự thảo Luật TAND (sửa đổi): Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1); Về nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án (các Điều 3, 15, 26, 27, 28, 29); Về không quy định Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa; Về giám sát hoạt động của Tòa án (khoản 4 Điều 21); Về hoàn thiện tổ chức bộ máy của các Tòa án; Về Thẩm phán Bảo vệ Thẩm phán; chế độ, chính sách đối với Thẩm phán…
Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=80031