Sức mạnh hủy diệt của vầng trăng khuyết trong Thế chiến 2

Đối mặt với hỏa lực không ngừng của quân Nhật Bản, hàng trăm lính thủy đánh bộ đã bị bắn và một số chết đuối trong vùng nước cao bao quanh rạn san hô.

Sự kinh ngạc của loài người bị chế ngự hoàn toàn bởi ngôi sao cuối cùng, ngôi sao quen thuộc nhất với Trái Đất được thiên nhiên kiến tạo như một phương thuốc xua tan bóng đêm u tối: Mặt Trăng.

— Pliny the Elder, Lịch sử tự nhiên (Natural History)

Mặt trăng là chìa khóa

Trung tá David Shoup, một sĩ quan thủy quân lục chiến 39 tuổi, má đỏ ửng, lo nghĩ về Mặt Trăng khi thuyền của ông lướt xuyên qua màn đêm Thái Bình Dương đen thẫm. Trăng vẫn chưa ló dạng; vào bán nguyệt cuối, khi khuyết dần, trăng sẽ mọc trên đại dương vào nửa đêm. Nhưng ngay cả một Mặt Trăng vô hình cũng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến Trái Đất.

Shoup biết rằng những chiếc thuyền của thủy quân lục chiến cần ít nhất 4 feet (1,2 mét) nước để nổi trên rạn san hô của đảo san hô vòng Tarawa, một tam giác rỗng của hòn đảo thuộc Nam Thái Bình Dương. Ngày nay, Tarawa là thủ đô của quốc gia Kiribati, nhưng vào ngày 20/11/1943, đấy là bước đầu tiên trong kế hoạch đánh bại Đế quốc Nhật Bản của quân Đồng minh. Việc chiếm giữ hòn đảo bé nhỏ và bãi đáp máy bay trên đảo phụ thuộc vào thủy triều, còn thủy triều phụ thuộc vào Mặt Trăng.

 Mặt trăng ảnh hưởng tới trái đất và quyết định nhiều hoạt động của con người. Ảnh: Freepik.

Mặt trăng ảnh hưởng tới trái đất và quyết định nhiều hoạt động của con người. Ảnh: Freepik.

Những người lên kế hoạch chiến đấu của quân Đồng minh dự định tiến hành cuộc xâm lược vào sáng ngày 20/11, khi họ dự kiến thủy triều lên cao sẽ bao phủ rạn san hô quanh Tarawa. Không có các thông số đo lường từ vệ tinh, người hoạch định chiến lược chỉ có thể đoán xem thủy triều sẽ dâng cao bao nhiêu vào ngày hôm đó.

Họ kiểm tra chu kỳ Mặt Trăng theo các biểu đồ thủy triều Thái Bình Dương từ hàng thế kỷ trước - đó là tất cả những gì họ có trong tay, và bổ sung dữ liệu gần đây hơn từ những vùng đất xa xôi như Australia và Chile. Họ ước tính thủy triều cao sẽ đạt đến 5 feet (1,5 mét) vào lúc 11h15 trưa - đủ cao để tạo không gian cho các chiến hạm. Nhưng đối với Shoup, độ sâu này vẫn còn quá nông đến mức nguy hiểm.

“Chúng ta sẽ phải lội vào, có khi giữa làn mưa đạn”, ông nói với phóng viên Robert Sherrod của tạp chí Life, người được đưa vào cùng đội quân, “hoặc [xe kéo lội nước] sẽ phải chạy đưa đón giữa bãi biển và cuối thềm lục địa. Phải tính toán thủy triều lên thật chính xác để tàu đổ bộ có thể đến nơi.”

Trong lúc các chỉ huy bồn chồn lo âu trong suốt những giờ trước khi mặt trời mọc, ông tôi - binh nhất John J. Corcoran - đã bắt tay vào nhiệm vụ của mình trên đảo Nanomea, cách đó 500 dặm về phía đông nam. Ông là một phần nhỏ nhưng quan trọng của hạm đội lớn nhất tại Chiến trường Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai.

Jack, như rất nhiều người Mỹ trẻ tuổi khác vào giữa cuộc chiến, đã háo hức nhập ngũ và sẵn sàng chiến đấu, được trang bị súng trường, lưỡi lê và chi phiếu trả lương của Thủy quân Lục chiến. Ông lĩnh 6,40 USD một tháng và học được kỹ năng lắp đặt bom cho máy bay.

Vào tháng 9/1943, khi 17 tuổi, thay vì học đại học, Jack đã lên tàu vận tải Puebla và đi về phía Tây từ San Diego, băng qua Thái Bình Dương sâu thẳm và quyến rũ với những vùng biển khác xa Đại Tây Dương xám ảm đạm mà ông hiểu rất rõ. Đến tháng 11/1943, ông đã đi xa nhà hơn bất kỳ ai mà mình từng quen biết, kể cả bố mẹ nhập cư người Ireland của ông.

Quân lính tập hợp để đánh chiếm Tarawa đông hơn nhiều so với lực lượng Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng cũng như lực lượng Đồng minh đã trải qua 6 tháng oi bức, lầy lội để bảo vệ đảo Guadalcanal. Lính thủy đánh bộ tiến về đảo san hô để hậu thuẫn cho các chiến hạm của Đồng minh và Tướng Julian Smith hứa rằng Hải quân sẽ đem lại “mức độ tập trung oanh tạc trên không và hỏa lực hải quân lớn nhất trong lịch sử chiến tranh”. Ông tôi đã đóng góp vào 900 tấn quân nhu quân Đồng minh đã thả trong trận Tarawa để dọn sạch chiến trường cho cuộc đánh chiếm.

Bất chấp tất cả những điều này, trận Tarawa kết thúc với số thương vong lớn nhất cho một trận chiến ngắn ngủi đến thế trong lịch sử Thủy quân Lục chiến. 5.000 lính tràn vào bãi biển, 1.115 người đã thiệt mạng và gần 2.300 người bị thương chỉ trong 76 giờ chiến đấu.

Thủy triều không dâng lên đến 5 feet vào sáng ngày 20/11. Triều hầu như không lên và các tàu vận tải đã không thể vượt qua rạn san hô, đúng như điều Shoup đã lo sợ. Vào lúc 6h48 sáng giờ địa phương, tướng Smith cùng một đô đốc đã liên lạc qua radio với một phi công đang quan sát từ thủy phi cơ và hỏi: “Rạn san hô có bị nước bao phủ không?”. “Không”, đó là câu trả lời.

Thay vào đó, lính thủy đánh bộ phải trèo ra khỏi những chiếc thuyền mắc cạn và lội 600 yard (548,6m) nước vào bờ, súng trường giơ cao quá đầu. Đối mặt với hỏa lực không ngừng của quân Nhật Bản, hàng trăm lính thủy đánh bộ đã bị bắn và một số chết đuối trong vùng nước cao bao quanh rạn san hô. Phải mất hàng thập kỷ, người ta mới hiểu được vì sao thủy triều nhuộm máu không dâng cao vào ngày hôm đó.

Tôi lớn lên và chỉ nghe được một vài câu chuyện về thời gian phục vụ của ông tôi trong Thế chiến thứ hai. Giống như nhiều cựu chiến binh khác, ông không thích nói về điều đó.

Thông qua Cục Lưu trữ Quốc gia, tôi biết rằng đơn vị của ông, đội máy bay Thủy quân Lục chiến - 31, đã đổ bộ lên đảo sau những người lính tuyến đầu, và từng người một di chuyển đến các vùng đất đã chiếm được để thiết lập các đợt ném bom cho giai đoạn tiếp theo của trận chiến trên Thái Bình Dương.

Qua mẹ tôi, tôi biết rằng Jack đã không thể nào chợp mắt trong các hố cá nhân che bạt của mình, và rằng ông lần chuỗi mân côi mặc cho nỗi kinh hoàng trải dài hết hòn đảo này đến hòn đảo khác. Là một người Công giáo ngoan đạo, ông truyền dạy lời cầu nguyện cho các đồng đội. Kính mừng Maria đầy ơn phúc - ông lặp đi lặp lại, cố gắng át đi những tiếng gầm thét “Quân Mỹ phải chết!” bằng tiếng Anh giọng địa phương.

Câu chuyện về những mối đe dọa Nhật Bản này trôi lờ lững như những bóng ma trong gió đêm khiến tôi - khi ấy còn là một đứa trẻ - ớn lạnh thấu xương. Tôi ước mình đã hỏi nhiều hơn về chúng. Và tôi ước mình có thể nói với Jack trước khi ông mất vào năm 2010, rằng chính Mặt Trăng chịu trách nhiệm cho tổn thất của lính thủy đánh bộ tại Tarawa.

Jill Stark, Rebecca Boyle/NXB Trẻ

Nguồn Znews: https://znews.vn/suc-manh-huy-diet-cua-vang-trang-khuyet-trong-the-chien-2-post1588464.html