Tái cơ cấu công nghệ, mấu chốt để sản xuất kinh doanh tăng trưởng
Năm 2018, TKV đã có những bước phát triển mang tính bứt phá mạnh mẽ. Sản lượng tăng, năng suất lao động tăng, tiền lương thu nhập tăng nhưng tổng số lao động giảm, bộ máy tinh gọn. Vậy đâu là giải pháp để TKV làm được điều đó? Câu trả lời là TKV đã có đề án tái cơ cấu đúng hướng, mà điểm mấu chốt nằm ở quá trình tái cơ cấu công nghệ sản xuất một cách hiệu quả.
Những con số ấn tượng
So với năm 2017, doanh thu tổng số của TKV năm 2018 đạt 124.583 tỷ đồng, tăng 16%; Lợi nhuận trước thuế đạt 4.998 tỷ đồng, tăng 64%; Nộp Ngân sách 17.828 tỷ đồng, tăng 20%. Khả năng sinh lời: ROE và ROA của Tập đoàn tiếp tục được cải thiện trong năm 2018 khi kết quả kinh doanh đạt hiệu quả cao với mức lợi nhuận trước thuế đạt gần 5.000 tỷ đồng. Hệ số nợ năm 2018 của Công ty mẹ và hợp nhất toàn Tập đoàn tiếp tục duy trì ở mức an toàn cao so với quy định tại Nghị định 91/2015/NĐ-CP (không vượt quá 3 lần), chứng minh việc điều hành tài chính, kiểm soát công nợ của TKV ngày càng có hiệu quả, khả năng tự tài trợ đã tăng lên so với năm trước.
Có được những kết quả đáng ghi nhận như trên là do tổng hòa nhiều yếu tố như: Thị trường khoáng sản hồi phục trở lại sau giai đoạn suy thoái, sản lượng tiêu thụ cao; Tập thể lãnh đạo, viên chức, công nhân lao động của TKV đã nỗ lực đẩy mạnh năng lực khai thác, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí; TKV đã sử dụng có hiệu quả các công cụ tài chính… Trong đó, không thể không nói tới sự chủ động của TKV trong việc triển khai đề án tái cơ cấu, tinh gọn bộ máy, đặc biệt là tái cơ cấu công nghệ sản xuất một cách hiệu quả.
Tái cơ cấu công nghệ, mấu chốt để SXKD tăng trưởng
Quá trình tái cơ cấu của TKV đã thực sự là động lực để các đơn vị phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh. TKV đã xây dựng Nghị quyết và chương trình hành động ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa vào sản xuất kinh doanh và quản lý để tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động… hướng đến xây dựng các “Mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ ít người”. Đây chính là điểm mấu chốt giúp TKV đạt được những con số ấn tượng vừa nêu trên. Nếu như 5 năm trước đây, toàn Tập đoàn có tổng số lao động lên đến gần 14 vạn người, riêng lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất than tại Quảng Ninh đã lên tới trên 10 vạn người, thì đến nay TKV còn 9,8 vạn lao động. Bộ máy tổ chức từ Tập đoàn đến các đơn vị ngày càng được tinh gọn, hiệu quả, nhưng tổng sản lượng khai thác than của TKV vẫn giữ “phong độ” với gần 40 triệu tấn/năm và nhiều sản phẩm khoáng sản, alumin, vật liệu nổ công nghiệp, điện, cơ khí… Tổng giá trị doanh thu của TKV hiện nay đạt gần 130 ngàn tỷ đồng/năm…
Chẳng hạn như, về tổ chức sản xuất, TKV đã chỉ đạo các mỏ lộ thiên lớn có chung ranh giới mỏ triển khai trình tự bóc đất, khai thác hợp lý 3 mỏ Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai tạo ra các lợi ích chung. Tổ chức kết nối liên thông hàng loạt các mỏ hầm lò, các khu vực khai thác đồng mức như khu vực Tân Dân, Hạ My (Hoành Bồ) với khu vực Đồng Vông (Uông Bí); khu vực Cái Đá với Bắc Bàng Danh (Hạ Long); khu vực Khe Chàm I với Khe Chàm III và tới đây sẽ là Khe Chàm II-IV (Cẩm Phả) hay các mỏ Núi Béo, Hà Lầm... Quá trình kết nối sẽ giúp các đơn vị có thể ứng dụng các thiết bị công nghệ hiện đại và tiết giảm chi phí vận tải, thông gió, thoát nước, đi lại… tạo ra các giá trị gia tăng lớn hơn trong cùng hệ thống.
Về ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất hầm lò, TKV đã nâng số lò chợ áp dụng khấu than bằng máy combain ngày càng tăng, trong đó có lò chợ công suất cao nhất đạt 1.200.000 tấn/năm tại Công ty CP than Hà Lầm, tương đương với một mỏ than hầm lò có tới trên 2000 lao động những năm trước đây. Các đơn vị khác như Vàng Danh, Nam Mẫu, Dương Huy cũng có những lò chợ khấu than bằng máy công suất 450.000 - 600.000 tấn/năm. Các đơn vị đều đã áp dụng chống lò bằng cột thủy lực, giá khung di động, giàn chống tự hành hiện đại, an toàn, mở ra triển vọng về cơ giới hóa sử dụng ít lao động. Nếu như cách đây 5 năm, sản lượng than khai thác hầm lò của TKV bằng công nghệ cơ giới hóa ở mức 2%, thì đến nay sản lượng này đã đạt gần 13% trong tổng số sản lượng khai thác hàng năm. Con số này đang tiếp tục được tăng cao, dự kiến năm 2019 đạt trên 15% và sau năm 2020 sẽ tăng từ 3% đến 5% mỗi năm.
Trong khai thác lộ thiên, các đơn vị đã đưa vào vận tải đất đá bằng xe trọng tải lớn đến 135 tấn. Đặc biệt, Công ty CP than Cao Sơn đã tổ chức mô hình vận tải đất đá hỗn hợp giữa xe ô tô và băng tải đá. Hệ thống băng tải đá mỗi năm vận chuyển trên 20 triệu mét khối đất đá, giảm chi phí đáng kể so với các công nghệ cũ.
Trong lĩnh vực tự động hóa, tin học hóa, các đơn vị đã ứng dụng nhiều công nghệ thay thế con người, giảm lao động sống như hệ thống cấp phát quản lý nhiên liệu tự động; hệ thống quản lý khí mỏ, hầm bơm nước tự động; hệ thống quản lý nhân lực ra vào lò; hệ thống quản lý, đo đếm phương tiện kho bãi tự động; các hệ thống vận hành thiết bị băng tải, máy cào liên động; hệ thống quan trắc môi trường tự động; các phần mềm quản lý nhân sự, kế toán, tài chính, công văn, hóa đơn điện tử...
Riêng các đơn vị sàng tuyển, chế biến than, TKV đã tự động hóa tối đa công đoạn giám sát thông số công nghệ chính trong hệ thống; tự động điều chỉnh tỷ trọng huyền phù cấp cho các máy tuyển; tự động điều khiển chế độ làm việc của các thiết bị cơ điện trong dây chuyền theo diễn biến công nghệ…
Trong lĩnh vực cơ khí mỏ, TKV đã chuyển từ cơ khí sửa chữa sang cơ khí chế tạo phục vụ sản xuất như chế tạo cột thủy lực, tổ chức cán thép vì lò, chế tạo thiết bị phòng nổ, các chi tiết máy với những cỗ robot hiện đại, tự động hoàn toàn…
Có thể kể đến những công trình tự động hóa được đưa vào vận hành gần đây và tỷ lệ giảm nhân lực vận hành để thấy hiệu quả của chủ trương nói trên, như: Hệ thống băng tải giếng chính Mạo Khê giúp giảm 70% nhân lực vận hành; hệ thống tự động hóa trạm quạt gió Công ty than Núi Béo giảm 50% nhân lực; tự động hóa tuyến băng tải lò XV -300 Hà Lầm giảm 40% nhân lực; tự động hóa tuyến băng tải giếng chính Khe Chàm (giảm 50% nhân lực); hệ thống tự động hóa hầm bơm Hà Lầm giảm 50% nhân lực… Nhờ đó, năng suất lao động tổng hợp thực hiện trong năm 2018 tính theo doanh thu đạt trên 1,1 tỷ đồng/người/năm, bằng 115,8% so với thực hiện năm 2017; tính theo sản lượng hiện vật quy đổi (đối với sản xuất than) đạt khoảng 635 tấn/người/năm, bằng 115,7% so với thực hiện năm 2017. Quan trọng hơn, việc không ngừng đầu tư công nghệ tiên tiến đã giúp TKV phát huy hiệu quả nâng cao trình độ nhân lực vận hành, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Ai được lợi khi các chỉ tiêu tài chính TKV đều tăng trưởng?