Tầm nhìn đúng đắn, toàn diện trong phát triển nguồn nhân lực quốc gia
Thảo luận tại Tổ 1 (Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội), các ĐBQH cho rằng, các mục tiêu, chỉ tiêu, phạm vi của Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035 được thiết kế không chỉ để giải quyết các vấn đề tồn đọng của giáo dục, mà quan trọng hơn, để đưa giáo dục bước vào giai đoạn phát triển mới - hiện đại, mở, liên thông, số hóa và hội nhập.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nông nghiệp
Phát biểu thảo luận tổ, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đánh giá cao sự lãnh đạo toàn diện, nhất quán và tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong việc xác định giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triển đất nước. Đặc biệt, những định hướng sâu sắc của Tổng Bí thư đã tạo kim chỉ nam cho việc hoàn thiện thể chế, khơi dậy khát vọng phát triển và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục cho tới khoa học – công nghệ, y tế và nông nghiệp công nghệ cao.
"Việc chúng ta thảo luận 2 nghị quyết quan trọng về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và y tế là minh chứng cho sự chỉ đạo quyết liệt, định hướng có gắn với hành động cụ thể, nói là làm", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

ĐBQH Nguyễn Thị Lan phát biểu thảo luận tại Tổ 1
Góp ý cụ thể cho dự thảo nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đánh giá cao Chính phủ, cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra đã chuẩn bị dự thảo Nghị quyết rất công phu, hiện đại, thể hiện quyết tâm đổi mới mạnh mẽ. Cách tiếp cận theo mục tiêu, có các dự án thành phần rõ ràng, cùng việc ưu tiên vùng khó khăn cho thấy tầm nhìn đúng đắn và toàn diện trong phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Để nghị quyết hoàn thiện hơn, đại biểu đã tập trung phân tích vào các nhóm kiến nghị về khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực cho nông nghiệp bởi đây những lĩnh vực có vai trò chiến lược trong giai đoạn tới. Theo đó, về Điều 1 của Dự thảo Nghị quyết, nội dung liên quan đến giáo dục đại học đã đặt ra mục tiêu rất cao như phát triển hệ thống đại học hiện đại, có trường vào tốp khu vực và thế giới. Tuy nhiên, dự thảo mới dừng ở “mục tiêu định vị”, chưa có cơ chế để các trường thực sự trở thành động lực của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong khi đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy Singapore bứt phá nhờ trao tự chủ toàn diện cho NUS; Hàn Quốc hình thành KAIST như trung tâm thúc đẩy công nghệ cho cả nền kinh tế...
Từ thực tiễn nêu trên, đại biểu kiến nghị bổ sung 4 điểm mới, đó là thí điểm cơ chế tự chủ theo mô hình sandbox cho các đại học trọng điểm (thực hiện quyền tự chủ một cách mạnh mẽ trong kiểm soát an toàn); hình thành trung tâm nghiên cứu – đổi mới sáng tạo quốc gia đặt tại đại học, có cơ chế tài chính linh hoạt và gắn kết doanh nghiệp; tăng tỷ lệ chi cho nghiên cứu, không chỉ dồn vào đầu tư hạ tầng; ban hành chuẩn “đại học nghiên cứu” để định hướng đầu tư có trọng tâm.
Làm rõ vai trò của khoa học - công nghệ trong nông nghiệp
ĐBQH Nguyễn Thị Lan cũng cho rằng trong Điều 1, dự thảo chưa làm rõ vai trò của khoa học – công nghệ trong nông nghiệp. Đây là khoảng trống chính sách lớn vì nông nghiệp vẫn là trụ đỡ của nền kinh tế và là khu vực chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu, do đó việc bổ sung hợp phần về khoa học - công nghệ, nông nghiệp là cần thiết và hợp lý.
Đại biểu cũng dẫn chứng kinh nghiệm quốc tế cho thấy khoa học - công nghệ mới là yếu tố tạo bứt phá, điển hình như Israel từ sa mạc thành cường quốc nông nghiệp nhờ tưới nhỏ giọt và giống mới; Úc và New Zealand tăng mạnh giá trị xuất khẩu nhờ công nghệ giống và chế biến; Hà Lan tuy chỉ bằng một tỉnh của Việt Nam nhưng hiện đang đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu nông sản nhờ mô hình campus nông nghiệp gắn kết đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp.
"Tôi kiến nghị bổ sung một hợp phần riêng về khoa học - công nghệ nông nghiệp, tập trung vào giống, công nghệ sinh học, nông nghiệp số, chế biến sâu và logistics; đồng thời xác định vai trò nòng cốt của các đại học và viện nghiên cứu nông nghiệp. Đây là hướng đi bảo đảm an ninh lương thực và nâng thu nhập nông dân", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

Quang cảnh thảo luận tại Tổ 1
Vẫn liên quan đến Điều 1, đại biểu đánh giá dự thảo còn thiếu hệ thống dự báo nhu cầu kỹ năng quốc gia (hay bản đồ kỹ năng tương lai mà quốc gia cần) dựa trên sự thay đổi về công nghệ, xu hướng ngành nghề, cơ cấu lao động, tốc độ tự động hóa, yêu cầu của doanh nghiệp, của thực tiễn, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
"Thiếu dự báo sẽ khiến đào tạo lệch hướng, chậm thích ứng với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung nhiệm vụ xây dựng Hệ thống dự báo kỹ năng quốc gia, làm nền tảng để tổ chức đào tạo các ngành nghề mới như AI, phân tích dữ liệu, robot, tự động hóa trang trại, logistics nông sản và chế biến công nghệ cao, và một số ngành nghề quan trọng cốt lõi khác", ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề xuất.
Đối với Điều 1 về mục tiêu cụ thể và Dự án thành phần, dự thảo mới nhấn mạnh bồi dưỡng đội ngũ nhưng chưa có cơ chế thu hút và giữ chân nhân tài mặc dù đây là điều kiện cốt lõi để đổi mới sáng tạo thành công. Do đó, ĐBQH đề nghị bổ sung cơ chế hợp đồng đặc thù để thu hút chuyên gia giỏi; tăng quỹ học bổng sau đại học trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ và nông nghiệp; hệ thống đánh giá – xếp hạng giảng viên theo chuẩn quốc tế... bởi kinh nghiệm quốc tế cho thấy khi có cơ chế đãi ngộ cạnh tranh, các trường nhanh chóng nâng chuẩn nghiên cứu và tạo ra công nghệ có giá trị kinh tế lớn.
"Các nhóm kiến nghị trên đều nhằm giúp nghị quyết không chỉ khắc phục hạn chế hiện tại mà còn tạo nền tảng chiến lược cho 10 – 20 năm tới với mục tiêu phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng chất lượng giáo dục đại học, và đưa nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng dựa trên tri thức", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Phát triển nhanh, bền vững và giữ vững bản sắc Việt Nam
Phát biểu thảo luận tại Tổ 1, ĐBQH Bùi Hoài Sơn khẳng định, với Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026–2035, chúng ta đang tạo nên một kiến trúc phát triển mới của đất nước – nơi giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, thể chế, hội nhập, kinh tế tư nhân không còn là những “trụ cột tách rời”, mà trở thành một hệ sinh thái thống nhất, cùng vận động để bảo đảm khát vọng phát triển nhanh, bền vững và giữ vững bản sắc Việt Nam.
"Trong hệ sinh thái đó, giáo dục chính là trung tâm của trung tâm, là lĩnh vực quyết định chất lượng giống nòi, nguồn nhân lực, sức cạnh tranh và cả sức mạnh văn hóa – tinh thần của dân tộc trong hàng chục năm tới", ĐBQH Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.

ĐBQH Bùi Hoài Sơn phát biểu thảo luận tại Tổ 1
Đại biểu cũng hoàn toàn nhất trí với Tờ trình 1061/TTr-CP của Chính phủ và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình này. Các mục tiêu, chỉ tiêu, phạm vi đều được thiết kế không chỉ để giải quyết các vấn đề tồn đọng của giáo dục, mà quan trọng hơn, để đưa giáo dục bước vào giai đoạn phát triển mới: hiện đại, mở, liên thông, số hóa và hội nhập.
Điều đáng nói hơn cả, đó là chương trình được đặt trong tinh thần của Nghị quyết 71 về đột phá giáo dục - đào tạo và đồng thời tương thích, bổ trợ cho toàn bộ 6 nghị quyết chiến lược còn lại. Như vậy, chương trình này không phải một chương trình “đơn ngành”, mà là chiếc trục kết nối toàn bộ chiến lược phát triển quốc gia.
Bên cạnh đó, đại biểu cũng đánh giá cao một số vấn đề được nêu trong Chương trình. Trước hết, 5 dự án thành phần được thiết kế chặt chẽ và đi đúng vào “điểm nghẽn” của giáo dục, đó là cơ sở vật chất, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, đội ngũ nhà giáo, giám sát và đánh giá. Đây là cấu trúc không thể hiện đại hóa giáo dục nếu thiếu một mảnh ghép nào. Đồng thời, mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, đầu tư cho 10 đại học trọng điểm để tiếp cận top 200 châu Á, hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo trong đại học, hiện đại hóa hệ thống trường nghề... là những bước đi phù hợp với xu thế thế giới. Ngoài ra, chương trình có tính mở, tính dài hạn, giúp địa phương chủ động lập kế hoạch 10 năm thay vì lúng túng từng năm như trước.
Tuy nhiên, ĐBQH Bùi Hoài Sơn cho rằng, để chương trình thực sự tạo chuyển biến, cần nhấn mạnh ba trục chính, đó là trục thể chế đúng tinh thần Nghị quyết 66 bởi chúng ta không thể kỳ vọng các mục tiêu lớn mà vẫn giữ tư duy quản lý cũ. Đại biểu đề nghị xây dựng cơ chế đặc thù cho đại học trọng điểm: tự chủ mạnh, quản trị theo chuẩn quốc tế; loại bỏ các thủ tục gây cản trở đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị; thực hiện nghiêm chế độ giải trình, thanh tra chuyển đổi số toàn ngành.
Trục khoa học – công nghệ và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết 57 về xây dựng nền tảng dữ liệu chung toàn ngành, quản lý học tập suốt đời cho từng công dân; bộ học liệu số mở quốc gia; phát triển phần mềm xử lý đạo văn chung để bảo đảm liêm chính học thuật; phát triển chuẩn giáo viên số, trường học số, hệ thống đánh giá bằng AI.
Riêng đối với trục văn hóa - con người, đồng điệu với Nghị quyết chấn hưng văn hóa và Nghị quyết 72 về y tế, ĐBQH Bùi Hoài Sơn cho rằng giáo dục phải nuôi dưỡng không chỉ tri thức mà cả nhân cách, năng lực thẩm mỹ, sức khỏe thể chất, sự tử tế, căn tính văn hóa Việt Nam. Do vậy, đại biểu đề nghị đưa giáo dục văn hóa, nghệ thuật, di sản vào nhà trường một cách bài bản; xây dựng môi trường học đường lành mạnh, an toàn, hạnh phúc; bảo đảm dinh dưỡng học đường, sức khỏe tinh thần học sinh – đúng tinh thần Nghị quyết 72. Đặc biệt, giáo dục phải là nơi bồi đắp nền tảng văn hóa, còn văn hóa là không gian để giáo dục “thấm vào đời sống” bởi hai lĩnh vực này phải song hành.














