Tân Bộ trưởng Công an trình dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi)
Chiều 7/6, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi).
Cần thiết phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật
Trình bày Tờ trình về dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang nêu rõ, quá trình triển khai thực hiện Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, sau 12 năm triển khai thi hành đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật để thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế; giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời gian tới…
Theo Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang, dự thảo Luật trình Quốc hội gồm 8 chương, 66 điều. So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo Luật giữ nguyên số chương, sửa đổi, bổ sung nội dung 52/58 điều, xây dựng mới 9 điều, bỏ 1 điều, tập trung vào các nội dung cơ bản, như:
Bổ sung quy định về khái niệm “mua bán người”; sửa đổi, bổ sung quy định về căn cứ xác định nạn nhân và quy định về các nguồn tài liệu, chứng cứ để xác định nạn nhân cùng một số căn cứ khác để xác định nạn nhân.
Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm tạo sự thống nhất trong quy định của pháp luật, phù hợp với Nghị định thư về việc phòng ngừa, trừng trị và trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia), Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bổ sung quy định về khái niệm “người đang trong quá trình xác định là nạn nhân” và bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ, bảo vệ đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, gồm: Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; Hỗ trợ y tế; Hỗ trợ tâm lý; Trợ giúp pháp lý; Hỗ trợ chi phí phiên dịch trong quá trình xác định nạn nhân.
Bổ sung những quy định nâng cao chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân so với quy định của Luật hiện hành, gồm: Tất cả nạn nhân có nguyện vọng trở về nơi cư trú được hỗ trợ các khoản chi phí đi lại và tiền ăn để trở về nơi cư trú; Được hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh; Được hỗ trợ để ổn định tâm lý; Tất cả nạn nhân được trợ giúp pháp lý… Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền của nạn nhân, phù hợp với điều kiện KT-XH của Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang cũng cho biết, dự thảo luật còn bổ sung các nội dung khác để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật liên quan; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp thực tiễn công tác phòng, chống mua bán người hiện nay và đáp ứng yêu cầu của công tác này thời gian tới.
Cần rà soát để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Thẩm tra dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga nêu rõ, Ủy ban Tư pháp tán thành sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Phòng, chống mua bán người.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, đầy đủ tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Đồng thời, Ủy ban Tư pháp cũng tán thành với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. Điều này phù hợp với 3 nhóm chính sách lớn đã được nêu trong Tờ trình số 435/TTr-CP ngày 5/9/2023 của Chính phủ.
Liên quan đến một số quy định cụ thể của dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết:
Về giải thích từ ngữ: Với tư cách là một đạo luật chuyên ngành về phòng, chống mua bán người thì việc mở rộng hơn hành vi mua bán người so với quy định của Bộ luật Hình sự là phù hợp. Tuy nhiên, giữa quy định của dự thảo Luật với Bộ luật Hình sự vẫn còn có điểm chưa đồng bộ, thống nhất. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu để có phương án bảo đảm sự đồng bộ về khái niệm “mua bán người” giữa Luật này với quy định của Bộ luật Hình sự.
Về chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người: Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật và cho rằng, chính sách ưu tiên bố trí ngân sách cho công tác phòng chống, mua bán người vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện KT- XH đặc biệt khó khăn là chính sách mới, hoàn toàn đúng đắn và phù hợp thực tế, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta trong phòng chống, mua bán người tại những địa bàn này.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, trên thực tế nhiều vùng khác tuy không thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn nhưng tình hình mua bán người lại xảy ra nghiêm trọng, diễn biến rất phức tạp. Do đó, đề nghị quy định ưu tiên bố trí ngân sách cho những vùng có tình hình mua bán người xảy ra nghiêm trọng, phức tạp. Đồng thời, rà soát để bảo đảm không chồng chéo với 3 chương trình mục tiêu quốc gia đã được phê duyệt…
Về việc trợ giúp pháp lý cho người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân: Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định theo hướng: người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được trợ giúp pháp lý như nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. Đồng thời, đề nghị đánh giá tác động và sửa đổi, bổ sung quy định tương ứng của Luật Trợ giúp pháp lý để bảo đảm tính thống nhất.
Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cũng đề nghị, cân nhắc bổ sung quy định về trách nhiệm của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia phòng ngừa mua bán người vào dự thảo Luật; bổ sung quy định Đồn Biên phòng, Cảnh sát biển là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, xác minh nạn nhân tự đến trình báo vào dự thảo Luật...
Ngoài ra, Cơ quan soạn thảo cần rà soát về nội dung, ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản… bảo đảm thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.