Tận dụng C/O ưu đãi: Lời giải cho bài toán khó

Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi theo các hiệp thương mại tự do đã tăng nhưng còn xa kỳ vọng, nguyên do không chỉ từ doanh nghiệp mà còn từ thực thi chính sách và kết nối.

Vì sao tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi chưa đạt kỳ vọng?

Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, cho biết, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi theo các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện chỉ đạt trung bình khoảng 30-32%. Trong đó, CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) mới gần 10%; UKVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương Quốc Anh và Bắc Ailen) khoảng 38%; EVFTA (Hiệp định thương mại Việt Nam - EU) khoảng 35%. “Những con số này có tăng so với các năm trước nhưng vẫn chưa tương xứng tiềm năng và chưa đạt kỳ vọng”, ông nhấn mạnh.

Theo ông Khanh, nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía. Trước hết, về phía doanh nghiệp, tâm lý “thích gần, thích dễ” vẫn khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chỉ cần duy trì lượng xuất khẩu ở mức vừa phải, “một năm vài chục container là đủ”, không muốn mở rộng sang thị trường khó hơn vì e ngại rủi ro, chi phí và yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe.

Hồ tiêu là một trong những ngành hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Ảnh minh họa

Hồ tiêu là một trong những ngành hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Ảnh minh họa

Thêm vào đó, thiếu thông tin thị trường là “nút thắt” gây trở ngại ngay cả với doanh nghiệp lớn, còn với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì mức độ nghiêm trọng hơn nhiều. Nguồn lực về nhân sự, tài chính, công nghệ hạn chế khiến họ càng khó theo kịp các yêu cầu của FTA. Đặc biệt, sự kết nối lỏng lẻo giữa doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài dẫn tới tình trạng cạnh tranh chồng chéo, làm giảm sức cạnh tranh tập thể.

Từ phía cơ quan quản lý nhà nước, ông Khanh chỉ ra ít nhất ba vấn đề. Một là, chương trình hỗ trợ tận dụng FTA dành cho doanh nghiệp còn thiếu và yếu. Hai là, năng lực thực thi ở địa phương rất mỏng, tại nhiều tỉnh chỉ có duy nhất một cán bộ phụ trách FTA, những thành phố lớn có 2-3 người và họ đồng thời kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực nên khó tránh việc triển khai chậm trễ. Ba là, các chiến lược phát triển xuất khẩu chưa xác lập rõ mục tiêu tận dụng từng FTA. “Một địa phương đặt mục tiêu tăng xuất khẩu 7%/năm nhưng không tính được phần đóng góp từ từng hiệp định và hành động cụ thể để đạt mục tiêu đó”, ông dẫn chứng.

Đồng bộ các giải pháp

Như vậy có thể thấy, FTA là “cánh cửa lớn” nhưng để có thể bước qua cần huy động những giải pháp đồng bộ. Về điều này, lãnh đạo Vụ Chính sách Thương mại đa biên cũng đưa ra những đề xuất.

Trong đó, giải pháp đầu tiên bắt đầu bằng chuyển đổi tư duy kinh doanh của doanh nghiệp phải “dám chơi” ở cả thị trường dễ và khó. Theo ông, doanh nghiệp cần định vị lại mình từ gia công sang xây dựng thương hiệu, hướng tới thị trường cao cấp thay vì chỉ tìm nơi tiêu thụ dễ tính.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp xây dựng chiến lược chi tiết cho từng thị trường. “Muốn vào EU theo EVFTA, phải biết rõ từng bước cần làm, bao gồm: Tiêu chuẩn gì, chứng nhận ra sao, yêu cầu cụ thể về truy xuất nguồn gốc…”, ông phân tích. Điều quan trọng là xác định vai trò của từng bên doanh nghiệp làm gì, cơ quan Trung ương và địa phương hỗ trợ gì. Chiến lược phải cụ thể, đo đếm được bằng kết quả.

Nguồn lực là gốc rễ của mọi vấn đề. Ông Khanh thẳng thắn khi chỉ ra, hầu như không có doanh nghiệp nào lập một bộ phận chuyên trách về FTA. Các phòng ban quen thuộc như kinh doanh, marketing đều có nhưng thiếu nhân sự chuyên xử lý tiêu chuẩn, quy tắc xuất xứ, rào cản kỹ thuật. Vì vậy, doanh nghiệp hoặc phải thành lập bộ phận FTA, hoặc thuê chuyên gia tư vấn.

Về nhân lực triển khai, có thể áp dụng mô hình đào tạo “train-the-trainer”, tức đào tạo chuyên sâu cho đầu mối tại địa phương để họ lan tỏa kiến thức và kỹ năng rộng hơn. Đây cũng chính là cách Hàn Quốc tạo nên lợi thế vượt trội trong tận dụng FTA. Song song, cần thiết kế chương trình hỗ trợ cụ thể.

Tăng cường kết nối cũng là chìa khóa quyết định. Trong đó, “hệ sinh thái FTA” sẽ là nơi doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức xúc tiến, bộ ngành và cả đối tác nước ngoài liên kết đồng bộ để giải quyết mọi “nút thắt” từ quy tắc xuất xứ, chứng nhận, logistics cho đến thị trường đầu ra. Hiện hệ sinh thái này đã trình Chính phủ và sẽ được triển khai ngay sau khi được phê duyệt.

Ở góc nhìn ngành hàng nông sản, bà Nguyễn Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, cảnh báo các rào cản kỹ thuật mới như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon hay Quy định về các sản phẩm không gây phá rừng của EU có thể khiến doanh nghiệp “vấp ngã” ngay trước cửa thị trường. Bà nhấn mạnh hai điểm then chốt cần cải thiện là truy xuất nguồn gốc và nguyên phụ liệu.

Bên cạnh đó, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ tiếp tục là điểm yếu nghiêm trọng. Vì vậy, nên tổ chức lại chuỗi cung ứng theo mô hình hợp tác xã, doanh nghiệp dẫn dắt; kiểm soát dư lượng, quy trình; chuẩn hóa truy xuất nguồn gốc để đáp ứng yêu cầu khắt khe từ thị trường cao cấp.

Tận dụng tốt C/O ưu đãi từ các FTA là mong muốn không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả các nhà hoạch định chính sách nhằm giúp xuất khẩu của Việt Nam mạnh về lượng tốt về chất. Muốn nâng tỷ lệ sử dụng, nhiều chuyên gia nhìn nhận, cốt lõi là chiến lược rõ ràng, nguồn lực đủ mạnh, đào tạo bài bản và kết nối hệ thống.

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/tan-dung-c-o-uu-dai-loi-giai-cho-bai-toan-kho-432400.html