Tận dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế để phát triển
Sau sáp nhập tỉnh, Quảng Ngãi có nền kinh tế đa dạng, bao gồm cả kinh tế công nghiệp, kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao và du lịch... Nhân dịp Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, phóng viên (PV) Báo và Phát thanh, Truyền hình Quảng Ngãi đã có cuộc trao đổi với Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang về những giải pháp phát huy tiềm năng, lợi thế của Quảng Ngãi để phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
CHÌA KHÓA ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
Theo Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang, việc kết hợp hài hòa giữa “rừng và biển”, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên sẵn có, không gian văn hóa mở rộng, đa dạng... sẽ là chìa khóa để Quảng Ngãi phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hướng đến mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030.

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang cùng các đại biểu tham quan dây chuyền sản xuất của Nhà máy Chế biến nông sản và dược liệu Sao Mai (Công ty CP Chế biến nông sản Sao Mai). Ảnh: HOÀI THANH
PV: Thưa đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí đánh giá thế nào về tiềm năng, lợi thế của Quảng Ngãi trong phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và ngành nông nghiệp công nghệ cao nói riêng sau khi sáp nhập tỉnh?
Đồng chí NGUYỄN HOÀNG GIANG: Sau sáp nhập tỉnh, Quảng Ngãi có tiềm năng rất lớn trong phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Toàn tỉnh có tổng diện tích tự nhiên hơn 14,8 nghìn ki lô mét vuông, trong đó diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp là 1,065 triệu héc ta. Diện tích đất có rừng lên tới hơn 893 nghìn héc ta.
Đây là nguồn tài nguyên dồi dào, hàm chứa nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội như du lịch sinh thái, kinh tế rừng, dịch vụ môi trường rừng và đặc biệt là thị trường carbon. Ngành lâm nghiệp được các chuyên gia đánh giá là ngành duy nhất có lượng phát thải khí nhà kính âm, mở ra cơ hội lớn cho việc định lượng lưu trữ carbon, phát hành tín chỉ carbon và tham gia thị trường carbon trong nước và quốc tế. Tỉnh có hai vùng khí hậu rõ nét, vùng tây Trường Sơn với địa hình núi cao (đỉnh Ngọc Linh 2.600m) thích nghi trồng sâm Ngọc Linh, vùng đông Trường Sơn với khí hậu nóng ẩm, thuận lợi cho phát triển cây lâm nghiệp.
Qua điều tra sơ bộ, Quảng Ngãi có 853 loài cây dược liệu quý, hiếm, trong đó có 30 loài có nhu cầu lớn trên thị trường; khoảng 25 loài được trồng và sử dụng rộng rãi, có giá trị chữa bệnh và kinh tế cao, như sâm Ngọc Linh, đảng sâm, đương quy, ngũ vị tử... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh là loài cây đặc hữu, quý hiếm, có giá trị vượt trội so với các loài sâm khác. Hiện nay, Quảng Ngãi là thủ phủ của sâm Ngọc Linh nhờ điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây sâm.
PV: Vậy đến nay việc khai thác những tiềm năng, lợi thế đó đạt được kết quả thế nào, thưa đồng chí?
Đồng chí NGUYỄN HOÀNG GIANG: Khu vực phía tây của tỉnh có khí hậu mát mẻ quanh năm (18-20°C), độ ẩm cao, lượng mưa lớn và hệ sinh thái rừng nguyên sinh đa dạng đã tạo môi trường sống thuận lợi để phát triển sâm Ngọc Linh và các dược liệu dưới tán rừng; mở ra cơ hội để phát triển ngành nông nghiệp công nghệ cao. Đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 9.798ha dược liệu, 2.922ha sâm Ngọc Linh, 1.211ha đảng sâm, 99ha đương quy... Hình thành một số vùng trồng dược liệu tập trung, như vùng sâm Ngọc Linh tại xã Măng Ri, xã Ngọc Linh và xã Xốp, vùng sâm dây tại xã Tu Mơ Rông...
Các sản phẩm chủ lực như cà phê, rau, củ, quả và dược liệu đang được nhiều doanh nghiệp đầu tư, phát triển với nhiều mô hình sản xuất theo hướng nông nghiệp sinh thái, như mô hình sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị có chứng nhận VietGAP (134ha); mô hình sản xuất sầu riêng theo hướng hữu cơ (33ha); mô hình trồng cây ăn trái tổng hợp sầu riêng, mít, ổi, mận... theo tiêu chuẩn VietGAP (4ha)... Các mô hình này đã mang lại giá trị sản phẩm tăng gấp 1,5 - 2 lần.
Có 2 vùng được công nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (vùng sản xuất cà phê Đăk Hà và vùng sản xuất rau củ quả Măng đen - Kon Plông); 7 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Xác định được 10 vùng có tiềm năng hình thành vùng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Tỉnh đang triển khai đánh giá, hỗ trợ sản xuất hơn 1.000ha cà phê vối, 1.200ha cây ăn quả và 50ha rau, củ, quả; đặc biệt là 2.800ha dược liệu tại xã Măng Ri...
Quảng Ngãi định hướng phát triển nông nghiệp xanh và du lịch, khai thác tối đa lợi thế biển cả, đại ngàn Tây Nguyên và giá trị văn hóa bản địa. Bởi lẽ, tỉnh ta sở hữu ba vùng sinh thái chủ đạo: Núi cao nguyên, đồng bằng và biển đảo, thuận lợi cho phát triển kinh tế đa ngành bền vững, từ nông nghiệp công nghệ cao đến kinh tế biển và du lịch sinh thái.
Ngành du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng cũng đang đứng trước nhiều cơ hội để bứt phá. Khu vực miền núi có nhiều địa danh nổi tiếng như: Núi Cà Đam, núi Ngọc Linh, Măng Đen, thác Trắng, cột mốc biên giới Việt Nam - Lào -Campuchia... mở ra nhiều cơ hội để phát triển du lịch. Việc phát triển du lịch nông nghiệp sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ cho nông sản địa phương và đa dạng hóa nguồn thu nhập cho người dân nông thôn.
"
Đến năm 2045, Quảng Ngãi phấn đấu đưa kinh tế biển và vùng ven biển, hải đảo phát triển mạnh, giữ vị trí, vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; hướng đến phát triển kinh tế thủy sản nhanh và bền vững, gắn với xử lý môi trường và du lịch biển, đảo”.
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh NGUYỄN HOÀNG GIANG
PV: Thưa đồng chí, đối với khu vực ven biển, Quảng Ngãi có những thế mạnh nào?
Đồng chí NGUYỄN HOÀNG GIANG: Quảng Ngãi được thiên nhiên ưu đãi với hơn 130km bờ biển, có nhiều bãi tắm đẹp, như bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Bình Châu... Kết hợp với sự đa dạng và đan xen kỳ diệu của địa hình và khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo cho Quảng Ngãi một hệ sinh thái rất phong phú và nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Các di sản địa chất có giá trị khoa học, khảo cổ, lịch sử tại các khu vực Lý Sơn, Bình Châu, Sa Huỳnh đã tạo ra những giá trị du lịch độc đáo, đa dạng. Đồng thời, có vùng đánh bắt rộng khoảng 11 nghìn ki lô mét vuông, có nhiều tiềm năng để phát triển nghề khai thác hải sản.
Toàn tỉnh có khoảng 4.900 tàu cá, trong đó có 3.026 tàu có chiều dài 15m trở lên khai thác ngoài khơi, với sản lượng khai thác hằng năm đạt 275 nghìn tấn. Ngoài ra, tỉnh cũng đang đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản gần bờ với các loài có giá trị kinh tế cao, như cá mú, cá bớp, cá chim, cá chẽm, tôm, hàu, ốc hương.
Tỉnh cũng đã huy động nhiều nguồn vốn để đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng cảng cá Sa Huỳnh, Tịnh Kỳ, Lý Sơn, bao gồm hệ thống xử lý nước thải tự động để giảm ô nhiễm và đáp ứng yêu cầu chống khai thác IUU do Liên minh Châu Âu đưa ra. Phát triển cảng nước sâu Dung Quất (có thể đón tàu đến 200 nghìn tấn), kết hợp với KKT Dung Quất và KCN VSIP Quảng Ngãi... để tạo chuỗi logistics, chế biến thủy sản quy mô lớn, giúp liên kết vùng thủy sản với cảng biển, sân bay (Chu Lai, Lý Sơn), đường bộ và dịch vụ xuất khẩu hiệu quả hơn. Điều này không chỉ phục vụ xuất khẩu hải sản, mà còn mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ khu vực miền núi của tỉnh và Tây Nguyên.
Quảng Ngãi còn có đặc khu Lý Sơn và nhiều bãi tắm đẹp như Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Châu Tân... thuận lợi cho phát triển du lịch biển, đảo và tạo động lực để các ngành dịch vụ, thương mại tăng tốc, góp phần tiêu thụ các sản phẩm hải sản, nông sản địa phương, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.
GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM, CHIẾN LƯỢC
PV: Theo đồng chí, để khai thác hiệu quả những tiềm năng, lợi thế về “rừng” và “biển”, tỉnh cần thực hiện những giải pháp trọng tâm, chiến lược nào?
Đồng chí NGUYỄN HOÀNG GIANG: Trước mắt, Quảng Ngãi phải tập trung hoàn thiện các quy hoạch liên quan đến rừng và biển. Cụ thể là, đề xuất với Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch Lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến 2050 tại Quyết định số 895/QĐ-TTg ngày 24/8/2024 đảm bảo phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh mới sau hợp nhất. Tích hợp, điều chỉnh Quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi mới trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó phải đảm bảo không gian phát triển, thu hút đầu tư các dự án trọng điểm có tính liên kết vùng trong nông nghiệp, nông thôn, làm tiền đề đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng, biển.
Phát triển chuỗi giá trị nông, lâm, thủy sản tích hợp theo hướng nâng cao năng lực sản xuất. Tập trung đầu tư, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp ở khu vực miền núi (cà phê, rau, củ, quả, dược liệu...) và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản ở khu vực biển. Hình thành và thúc đẩy phát triển các mô hình nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp. Tận dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ và thức ăn chăn nuôi, nhằm giảm phát thải và ô nhiễm. Chế biến sâu và đa dạng sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản, như các sản phẩm chế biến từ sâm Ngọc Linh, cà phê, cây ăn quả, mía đường và các loại hải sản, tạo ra các sản phẩm độc đáo mang bản sắc của Quảng Ngãi, như tỏi Lý Sơn, cà phê Măng Đen, sâm Ngọc Linh...
Tận dụng hệ thống cảng biển hiện có và quy hoạch mở rộng (Dung Quất, Sa Kỳ, Mỹ Á, Bến Đình...) để tối ưu hóa việc vận chuyển, xuất khẩu nông sản và thủy sản, kết nối thị trường miền núi với thị trường quốc tế thông qua đường biển. Quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn biển và rừng đặc dụng tại các khu vực có hệ sinh thái đặc sắc, như Lý Sơn, đầu nguồn sông Trà Khúc, Trà Bồng, Sê San... Thực hiện cơ chế chia sẻ lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái, như chi trả dịch vụ môi trường rừng gắn với phát triển dược liệu dưới tán rừng và dịch vụ hấp thụ carbon.

Người dân đưa du khách khám phá khu vực biển đảo Bé, đặc khu Lý Sơn. Ảnh: THANH PHƯƠNG
PV: Vấn đề hạ tầng và xúc tiến đầu tư cũng đang là thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của Quảng Ngãi hiện nay. Theo đồng chí, đâu là giải pháp để tháo gỡ điểm nghẽn này?
Đồng chí NGUYỄN HOÀNG GIANG: Tỉnh sẽ ưu tiên các nguồn lực để hoàn thiện hạ tầng kết nối và cải thiện môi trường đầu tư. Phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ, thông qua việc đầu tư, nâng cấp và mở rộng các tuyến đường kết nối khu vực miền núi với đồng bằng và các cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và phục vụ du khách.
Nâng cấp Quốc lộ 24 đạt tiêu chuẩn đường cấp III miền núi. Xây dựng tuyến cao tốc từ cửa khẩu quốc tế Bờ Y kết nối cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn; nâng cấp, mở rộng các tuyến đường kết nối cao tốc với các xã, phường. Tiếp tục rà soát, ban hành các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, chế biến dược liệu, nông sản, thủy sản và phát triển du lịch sinh thái, du lịch biển.
Đẩy mạnh hợp tác công tư và liên kết vùng. Huy động nguồn lực xã hội thông qua các hình thức hợp tác công tư (PPP) để đầu tư vào vùng trồng dược liệu, hạ tầng cảng cá, cảng biển, bảo tồn sinh thái, du lịch... Tăng cường liên kết vùng với các tỉnh trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên và tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia để mở rộng không gian phát triển kinh tế.
Xây dựng bản đồ số hóa tài nguyên rừng và biển, tích hợp dữ liệu GIS, viễn thám, khí hậu… để phục vụ công tác quy hoạch và quản lý phát triển bền vững. Ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đặc biệt với các sản phẩm OCOP, sâm Ngọc Linh, thủy sản xuất khẩu, góp phần minh bạch thông tin và nâng cao giá trị sản phẩm. Phát triển nền tảng thương mại điện tử cho các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và du lịch xanh, kết nối thị trường trong nước và quốc tế.
Phát triển du lịch xanh, bền vững dựa trên kết nối rừng - biển, gắn với bảo tồn thiên nhiên; xây dựng các sản phẩm du lịch liên vùng. Tạo ra các tour du lịch kết nối trải nghiệm, du lịch sinh thái núi rừng (Măng Đen, thác Pa Sỹ...) với du lịch biển, đảo (Lý Sơn, Mỹ Khê, Châu Tân, Sa Huỳnh...). Nhân rộng mô hình phát triển du lịch cộng đồng thôn Kon Bring, xã Măng Đen; du lịch trải nghiệm sản xuất hành tỏi ở đặc khu Lý Sơn. Phát triển du lịch trang trại để du khách trải nghiệm, tìm hiểu quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tại chỗ.
Điều này không chỉ tăng thu nhập cho nông dân, mà còn quảng bá sản phẩm địa phương. Xây dựng thương hiệu chung cho du lịch và nông sản Quảng Ngãi, nhấn mạnh sự kết hợp độc đáo giữa rừng và biển, bản sắc văn hóa đa dạng.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước và cơ chế chính sách đặc thù; phát huy tinh thần đoàn kết và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đề xuất Chính phủ ban hành chính sách ưu tiên đầu tư và hỗ trợ phát triển đặc thù cho tỉnh Quảng Ngãi mới sau hợp nhất. Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương cấp xã trong việc thực hiện các nhiệm vụ và giải quyết thủ tục hành chính.
Đồng thời, phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng từ cấp ủy, chính quyền đến nhân dân, vì đây là yếu tố quyết định để vượt qua mọi khó khăn và thực hiện thành công các mục tiêu phát triển. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, quản lý du lịch, kỹ thuật chế biến, logistics… nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong kỷ nguyên mới.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!