TAND Tối cao đề xuất 3 điều kiện để một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã nêu ra 3 điều kiện nếu người thực hiện hành vi phạm tội đáp ứng đủ có thể được xem xét không truy cứu hình sự...
Mới đây, TAND Tối cao đã công bố dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ (thay thế Nghị quyết 03/2020).
Một trong những nội dung đáng chú ý của dự thảo lần này đó là việc TAND Tối cao đã có những hướng dẫn cụ thể về các trường hợp áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt và điều kiện để một người không bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS).

Ông Nguyễn Thành Danh, cựu giám đốc CDC Bình Dương cũ (trái) và ông Trần Thanh Phong, cựu phó phòng CDC Bình Dương cũ (phải) là hai bị cáo được Tòa tuyên miễn TNHS trong vụ Việt Á. Ảnh: CTV
Không vụ lợi, dám nghĩ dám làm được miễn hình phạt
Theo đó, khoản 3 Điều 5 dự thảo Nghị quyết nêu rõ xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 BLHS đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong bốn trường hợp sau:
Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm.
Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
Khi xử lý tội phạm về tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ cơ quan tố tụng được quyền xem xét cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của BLHS đối với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội đã khắc phục toàn bộ hoặc ba phần tư thiệt hại.
Người phạm các tội này cũng được xem xét để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nếu có đủ căn cứ quy định tại Điều 54 BLHS.
(Theo Điều 5 Dự thảo Nghị quyết)
Điều kiện để không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Dự thảo cũng đưa ra một điều khoản hoàn toàn mới đó là hướng dẫn về điều kiện để một người không bị truy cứu TNHS.
Cụ thể, TAND Tối cao đề xuất xem xét không truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có đủ 3 điều kiện:
Thứ nhất, thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan theo quy định.
Thứ hai, không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, hoặc có gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước nhưng đã khắc phục toàn bộ hậu quả.
Thứ ba, dự án, công trình có sai phạm đã được hoàn thành, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương, đất nước.
Cách xác định thiệt hại, tài sản bị chiếm đoạt
Tại Điều 10 của dự thảo đã bổ sung thêm những quy định để làm rõ thêm nội hàm trong các khái niệm khi xác định thiệt hại của vụ án.
Theo đó, trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ xử lý hình sự được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp tội phạm thực hiện liên tục, kéo dài thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt được xác định tại thời điểm kết thúc hành vi phạm tội.
Đối với trường hợp hành vi phạm tội đang diễn ra nhưng bị phát hiện, ngăn chặn thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt được xác định tại thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, ngăn chặn.
Tội phạm liên tục, kéo dài là trường hợp nhiều hành vi cùng thực hiện một tội phạm xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, cùng xâm hại đến khách thể của tội phạm và đều bị chi phối bởi một ý định phạm tội cụ thể.
Còn thời điểm tội phạm liên tục, kéo dài được phát hiện là khi hành vi phạm tội đang thực hiện mà bị phát hiện hành vi vi phạm. Thời điểm tội phạm liên tục, kéo dài kết thúc là hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt.
Phân biệt miễn hình phạt và miễn/không truy cứu trách nhiệm hình sự
Điều 2 BLHS quy định rõ chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS.
Tuy hiện nay trong BLHS chưa có quy định nào định nghĩa cụ thể khái niệm miễn TNHS/không truy cứu TNHS nhưng khái niệm này có thể hiểu là pháp luật hình sự không buộc một người phải chịu TNHS về tội mà họ đã thực hiện (đủ cấu thành tội phạm) nếu đáp ứng đủ các điều kiện hoặc rơi vào các trường hợp luật định.
Ví dụ để một người được miễn TNHS khi phát sinh căn cứ áp dụng quy định tại Điều 29 BLHS.
Hay như một số trường hợp không bị truy cứu TNHS như: Người thực hiện hành vi phạm tội nhưng thời hạn truy cứu TNHS đã hết (Điều 27); Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến tuổi chịu TNHS (Điều 12)...
Hoặc với nhóm tội phạm về tham nhũng chức vụ nếu đáp ứng đủ các điều kiện giống như trong dự thảo Nghị quyết thì người thực hiện hành vi phạm tội không bị truy cứu TNHS.
Còn miễn hình phạt được hiểu là một người đã bị kết án (tòa tuyên có tội) nhưng người này không buộc phải chấp hành hình phạt về tội mà mình đã thực hiện (được miễn chấp hành) nếu rơi vào các trường hợp theo quy định.
Cả hai chế định trên có điểm giống nhau đều là chính sách khoan hồng, nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
Tuy nhiên, giữa miễn hình phạt và miễn TNHS/không phải chịu TNHS khác nhau ở một số điểm như:
Miễn hình phạt: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền áp dụng; Có án tích nhưng đương nhiên được xóa; Đối tượng là người đã bị kết án bằng một bản án.
Miễn/không truy cứu TNHS: Thẩm quyền thuộc về Cơ quan điều tra, VKS hoặc Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng; Không có án tích; Đối tượng có thể đã bị kết án hoặc chưa bị kết án.
Luật sư Nguyễn Hữu Thục , Đoàn Luật sư TP.HCM












