Tăng lợi ích từ thị trường Anh

UKVFTA có vai trò bảo đảm thương mại song phương giữa Việt Nam và Anh không bị gián đoạn sau khi tiến trình Brexit kết thúc

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) được đàm phán dựa trên nguyên tắc kế thừa những cam kết đã có trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và có vai trò bảo đảm thương mại song phương giữa Việt Nam và Anh không bị gián đoạn sau khi tiến trình Brexit kết thúc.

Thị trường nhập khẩu tiềm năng

Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, UKVFTA tạo ra cơ hội lớn thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như: thủy hải sản, gạo, dệt may, gỗ, rau quả, da giày. Bên cạnh đó, nước Anh còn cam kết bổ sung về lượng TRQ (hạn ngạch thuế quan) đối với hơn 10 mặt hàng khác như trứng, tỏi, ngô ngọt, tinh bột sắn, surimi... Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi Anh là một trong những thị trường nhập khẩu tiềm năng các mặt hàng Việt Nam được hưởng ưu đãi về hạn ngạch thuế quan, ví dụ gạo, tinh bột sắn, thủy sản.

Xuất khẩu các sản phẩm tinh chế từ dừa sang Anh quốc .Ảnh: NGỌC ÁNH

Xuất khẩu các sản phẩm tinh chế từ dừa sang Anh quốc .Ảnh: NGỌC ÁNH

Đặc biệt, trong giai đoạn đại dịch Covid-19, nhu cầu nông sản, thực phẩm, sản phẩm điện tử (máy tính, thiết bị internet), đồ vệ sinh, đồ bảo hộ cá nhân, thiết bị y tế (máy thở, máy lọc máu), dụng cụ xét nghiệm, đồ bảo hộ bệnh viện (găng tay nitrate, khẩu trang, quần áo cho nhân viên y tế và bệnh nhân) của thị trường Anh có xu hướng gia tăng. Do đó, kết hợp với những cơ hội từ UKVFTA, xuất khẩu hàng hóa sang Anh sẽ tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ.

Ngoài ra, những cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh vực cụ thể cũng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp (DN), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Anh tiếp cận được thuận lợi hơn thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam. Đồng thời, giúp người tiêu dùng Việt Nam được tiếp cận nguồn cung các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao từ Anh như: dược phẩm, chăm sóc sức khỏe, xây dựng hạ tầng và năng lượng sạch.

Tất nhiên, UKVFTA cũng chứa đựng nhiều thách thức. Trong đó, sức ép cạnh tranh từ cam kết mở cửa thị trường, đặc biệt là trong những ngành Anh có thế mạnh như dịch vụ tài chính, dược phẩm, các mặt hàng hóa chất... là rất lớn. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu từ phía Anh là rất cao, đòi hỏi Việt Nam cải thiện tính đồng nhất trong từng lô hàng, công tác thu hoạch bảo quản và chất lượng sản phẩm để chinh phục thị trường khó tính này.

Theo tính toán của Bộ Công Thương, giá trị thuế nhập khẩu mà hàng hóa Việt Nam tiết kiệm được khi vào Anh ước đạt 3.500 tỉ đồng/năm. Trong bối cảnh đại dịch đang diễn ra gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, UKVFTA có thể giúp ổn định thị trường để các DN phục hồi và phát triển.

Doanh nghiệp thêm cơ hội

Theo ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vina T&T Group, Anh là thị trường chính đối với rau quả tại châu Âu với nhu cầu nhập khẩu đa dạng các mặt hàng như: rau thơm, cà pháo, trái cây các loại... Đặc điểm của thị trường Anh nói riêng và EU nói chung là tất cả rau quả từ Việt Nam đều có thể xuất khẩu nếu có đơn hàng và đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật nước nhập khẩu mà không phải trải qua đàm phán mở cửa từng sản phẩm như nhiều nước khác nên tiềm năng thị trường rất lớn.

Do đó, khi Việt Nam ký được FTA với Anh giúp rau quả Việt Nam duy trì được lợi thế về thuế quan so với các đối thủ như Thái Lan, Indonesia. Tuy nhiên, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của Anh, đặc biệt là ngưỡng tối đa thuốc bảo vệ thực vật, rất ngặt nghèo nên khi xuất khẩu phải kiểm soát kỹ để tránh rủi ro. "Anh không yêu cầu Việt Nam phải kiểm tra lô hàng tại Việt Nam trước khi xuất khẩu nhưng tỉ lệ kiểm tra ở cửa khẩu nhập lên đến 80% nên lô hàng không đạt sẽ bị chặn lại" - ông Tùng giải thích.

Tuy vậy, theo ông Tùng, lợi thế về thuế quan của rau quả Việt Nam sẽ không duy trì được lâu khi các đối thủ của Việt Nam cũng đang đàm phán với EU và Anh để có những hiệp định tương tự. Do đó, chỉ những DN có nền tảng về vùng nguyên liệu, quản lý chất lượng mới có thể tranh thủ được cơ hội, chiếm lĩnh thị trường ngay trong giai đoạn đầu UKVFTA có hiệu lực. Còn nếu bây giờ DN mới bắt đầu xây dựng vùng nguyên liệu theo chuẩn EU, Anh thì vài năm nữa cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn.

"Tuy nhiên, cái khó trước mắt là tình trạng thiếu container xuất khẩu và giá cước tăng cao cho hàng hóa xuất khẩu bằng đường hàng không lẫn đường biển nên có trường hợp DN phải từ chối đơn hàng vì lo ngại không thể giao đúng hẹn. Hơn nữa, giá cước tăng cao cũng kéo theo giá bán sản phẩm cuối cùng đến người tiêu dùng cũng tăng khiến sức mua giảm sút " - ông Tùng bày tỏ lo lắng.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), đánh giá UKVFTA là bước tiếp nối kịp thời, không làm gián đoạn các ưu đãi mà Việt Nam đang được hưởng trong giai đoạn chuyển tiếp (Anh thực thi EVFTA đến hết năm 2020). Anh đang là thị trường tiềm năng của thủy sản Việt Nam. Năm 2020, trong khi xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các nước thành viên EU giảm mạnh do tác động của dịch Covid-19 thì riêng thị trường Anh vẫn tăng cao. Tính đến hết quý III/2020, xuất khẩu thủy sản sang Anh đạt gần 258 triệu USD, tăng 23% so với cùng kỳ 2019. Trong đó, tôm và cá tra là 2 mặt hàng chủ đạo, tăng lần lượt 19% và 27%; cua ghẹ và cá biển (trừ cá ngừ) cùng tăng lần lượt 55% và 101%.

"Sự tăng trưởng của thị trường Anh không phải là sự "đột biến" mà là một quá trình đầu tư lâu dài. Ở thị trường Anh, các nhà nhập khẩu đã xây dựng được hệ thống phân phối với nhiều nhãn hàng riêng được người tiêu dùng đón nhận. Việc phát triển được kênh bán lẻ giúp DN gia tăng được sản lượng xuất khẩu để bù đắp cho kênh dịch vụ ăn uống, nhà hàng - khách sạn phải đóng cửa hoặc mở cửa hạn chế do dịch Covid-19" - ông Trương Đình Hòe nói.

Ngọc Ánh - Phương Nhung - Thái Phương

Nguồn NLĐ: http://nld.com.vn/kinh-te/tang-loi-ich-tu-thi-truong-anh-20201220213907162.htm