Tăng năng suất lao động Việt Nam giai đoạn 2026-2030: phải bắt đầu từ mặt trận 'cấu trúc tử huyệt'!

Từ nguyên lý xuyên suốt, năng suất lao động không tăng vượt bậc nhờ cải tiến nhỏ, mà nhờ chuyển đổi lớn của cả hệ thống kinh tế.

GS. Vũ Minh Khương, giảng viên trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, gợi ý Việt Nam phải tạo được đột phá chiến lược trên ba mặt trận chính yếu: “cấu trúc tử huyệt”, “điểm nghẽn vận hành”, và “hạn chế kỹ thuật” để đạt mức tăng năng suất lao động trung bình 8,5%/năm.

Mục tiêu rất cao nhưng là cấp bách chiến lược

KTSG: Thưa ông, cùng với quyết tâm tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn 2025-2030, một mục tiêu đang được cân nhắc là đạt tốc độ tăng năng suất lao động khoảng 8,5%/năm. Ông đánh giá như thế nào về sự cần thiết của mục tiêu nêu trên, đặc biệt khi so sánh với quyết tâm tăng trưởng GDP và mong muốn GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 đô la Mỹ/năm?

- GS. Vũ Minh Khương: Năng suất lao động (NSLĐ) được coi là khuôn thước vàng để đánh giá mức độ phồn vinh của một xã hội và năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế. Diễn đạt một cách đơn giản, NSLĐ được tính bằng giá trị tạo ra bình quân hàng năm của một người lao động trung bình, bao gồm thu nhập cá nhân và lợi ích do đầu tư tư bản mang lại. Do vậy, tăng NSLĐ có vai trò trọng yếu trong đảm bảo tăng lương và tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Với Việt Nam, mục tiêu tăng NSLĐ ở mức 8,5% cho giai đoạn 2026-2030 là rất cao vì trong gần bốn thập niên cải cách vừa qua, mức tăng này chỉ từ 5-6%, mặc dù khi NSLĐ còn thấp thì dư địa tăng trưởng còn lớn, việc tăng NSLĐ trong thời kỳ này dễ hơn rất nhiều.

Mục tiêu tăng NSLĐ ở mức 8,5%, tuy nhiên, là cấp bách chiến lược vì hai lý do. Thứ nhất, nếu không có bước tiến vượt bậc về NSLĐ, Việt Nam có nguy cơ rất cao bị kẹt trong bẫy thu nhập trung bình, “già trước khi giàu’, và sẽ không thể trở thành quốc gia có mức thu nhập cao vào năm 2045 như kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân.

Thứ hai, đặt ra mục tiêu rất cao này, Trung ương Đảng và Chính phủ thể hiện quyết tâm có những bước cải cách đột phá chưa từng có, mở đường cho những chuyển biến sâu rộng trong toàn bộ nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng rất cao.

Đặc biệt, sự tiến bộ vượt bậc của cách mạng trí tuệ nhân tạo (AI) đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ sẽ giúp Việt Nam biến mục tiêu này thành hiện thực.

KTSG: Trong giai đoạn 2020-2025, dù GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 đô la Mỹ/năm, đưa Việt Nam gia nhập nước có thu nhập trung bình cao, tốc độ tăng NSLĐ bình quân ước đạt 5,3%. Đâu là nguyên nhân của việc tốc độ tăng NSLĐ thấp hơn kỳ vọng này? Những vướng mắc đó đã được xử lý cho giai đoạn tới chưa, thưa ông?

- Đây là câu hỏi rất quan trọng. Chúng ta sẽ khó có thể nâng tăng trưởng NSLĐ lên trên 6% chứ chưa nói đến 8,5% nếu chúng ta vẫn duy trì mô hình tăng trưởng cũ, dù có cố gắng đến đâu. Nó giống như cố gắng tăng tốc chiếc xe cũ trên một quỹ đạo thấp dù đổ thêm nhiên liệu và được hô hào cổ vũ đến mức nào.

Để tạo nên bước tiến vượt bậc về NSLĐ, chúng ta phải chuyển lên một quỹ đạo mới thông qua ba đột phá chiến lược trên ba mặt trận chính yếu: “cấu trúc tử huyệt”, “điểm nghẽn vận hành”, và “hạn chế kỹ thuật”.

Giải quyết “cấu trúc tử huyệt” có ý nghĩa quyết định thành công trong các cải cách đột phá. Nó giải quyết vấn đề động lực, lợi ích, và lòng tin. Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, ngọn cờ cải cách chỉ bay phất phới khi nó ghi rõ trên nó dòng chữ lợi ích. Sức mạnh dân tộc Việt Nam rất lớn trong sự nghiệp giành và giữ độc lập vì ai cũng thấm thía “không có gì quí hơn độc lập tự do”. Công cuộc đổi mới của Việt Nam khởi đầu bằng “Khoán 10” đã đánh trúng điểm tử huyệt về lợi ích của người nông dân nên đã mở ra những thành công rực rỡ.

Tiếp đến là “điểm nghẽn vận hành”. Đây là thách thức cần vượt qua, vì nếu xem nhẹ, mọi việc sẽ bị trì trệ và ách tắc. Trong bài học của nông nghiệp, phát triển thị trường và hội nhập quốc tế là một ví dụ sinh động.

Mặt trận thứ ba, là “hạn chế kỹ thuật”. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực, từ hạ tầng đến nguồn nhân lực, từ hội nhập quốc tế đến đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Trở lại bài học của nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lên thủy sản, hoa quả; nhập công nghệ và thiết bị; đầu tư vào thủy lợi, phân bón đã đem lại nhiều kết quả ấn tượng cho ngành.

Cải cách bắt đầu từ “cấu trúc tử huyệt”

KTSG: Ông từng nêu quan điểm, năng suất tăng chủ yếu do tái cơ cấu kinh tế. Nhìn từ góc độ này, vậy “đột phá năng suất” của Việt Nam nằm ở đâu?

- Để nâng tầm quỹ đạo tăng NSLĐ, công cuộc cải cách phải bắt đầu từ mặt trận “cấu trúc tử huyệt” với tầm nhìn đột phá và chiến lược thông tuệ, bên cạnh nỗ lực tập trung vào hai mặt trận còn lại là “điểm nghẽn vận hành” và “hạn chế kỹ thuật”. Điều đặc biệt cần lưu ý là nếu ta bỏ qua mặt trận “cấu trúc tử huyệt” mà chỉ tập trung vào giải quyết “hạn chế kỹ thuật” hoặc thậm chí một vài “điểm nghẽn vận hành” thì sẽ rất khó đi được xa.

Vì vậy nghiên cứu rõ “cấu trúc tử huyệt” của NSLĐ trong mỗi lĩnh vực của nền kinh tế, từ dịch vụ công đến doanh nghiệp nhà nước, từ doanh nghiệp tư nhân đến doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là rất quan trọng để đưa ra quyết sách cải cách có sức đột phá cao. Tâm điểm của nghiên cứu này là vấn đề động lực - lợi ích.

Hồi tôi làm giám đốc của một doanh nghiệp, khi các phân xưởng làm khoán sản phẩm có lương tăng cao thường bị bộ phận gián tiếp so bì và không nhiệt tình ủng hộ. Khi tôi cho cơ chế lương gián tiếp bằng khoảng 15% lương trực tiếp thì mọi người sôi nổi tìm cách giúp các phân xưởng tăng ca và tăng thu nhập.

Một lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn Viettel cho tôi biết bí quyết thành công nhất của tập đoàn là quỹ lương dựa trên lợi nhuận làm ra (với mức trần là 18%). Cách tính này làm cán bộ công nhân viên chức tập đoàn làm hết mình và tự hào về thu nhập chính đáng cũng như đóng góp thực sự của họ với đất nước và bè bạn quốc tế. Tôi quả thực chứng kiến nỗ lực vượt bậc của các bạn trẻ Viettel ở Myanmar, họ tạo nên doanh thu gần 1 tỉ đô la Mỹ năm 2025 với lợi nhuận rất lớn, có uy tín cao, và năng lực cũng như phẩm chất có thể so sánh tương đồng với Singapore.

Theo hướng đột phá này, nếu chúng ta gắn cơ chế lợi ích với tăng NSLĐ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế thì sẽ sớm mang lại kết quả to lớn và rõ rệt. Chẳng hạn, với doanh nghiệp nhà nước, tiền lương tùy thuộc vào lợi nhuận, mức tăng NSLĐ, và nỗ lực tiến đến tầm nhìn 2045. Với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và ngành điện, đó là khả năng tích hợp điện tái tạo vào lưới, sản lượng điện tái tạo toàn quốc, và độ tin cậy của hệ thống điện. Phải làm sao để EVN tìm mọi cách động viên người dân đầu tư vào năng lượng tái tạo (điện mặt trời) thay vì gây khó khăn cho họ.

Sau khi giải quyết toàn diện thách thức “cấu trúc tử huyệt”, Việt Nam có thể tăng NSLĐ rất nhanh với sự chú trọng vào năm đột phá chiến lược sau:

1. Tái cấu trúc ngành theo hướng giá trị cao, trọng tâm vào 5 - 7 ngành mũi nhọn

Kinh nghiệm Hàn Quốc, Đức và Đài Loan cho thấy: một quốc gia/vùng lãnh thổ chỉ có thể tăng năng suất bền vững khi có những ngành dẫn dắt, với năng suất vượt trội và lan tỏa sang các ngành khác.

Với Việt Nam, các ngành có tiềm năng lớn gồm: công nghệ số và phần mềm dịch vụ (như Ấn Độ); bán dẫn và thiết kế vi mạch (như Đài Loan, Hàn Quốc); logistics thông minh (như Singapore, Hà Lan); công nghiệp xanh - hydro - năng lượng tái tạo; y sinh học, dược phẩm; AI và robot tự động hóa.

2. Hình thành “tam giác năng suất”: Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường

Singapore, Đức và Đài Loan đều thành công vì có cấu trúc ba tầng này:

- Nhà nước định hướng và hỗ trợ,

- Doanh nghiệp là động lực đổi mới,

- Viện, trường và trung tâm nghiên cứu là nguồn cung tri thức.

Việt Nam cần xây dựng mô hình tương tự: “mạng lưới đổi mới sáng tạo” kết nối sâu với doanh nghiệp - đại học - viện nghiên cứu.

3. Cụm ngành và hệ sinh thái công nghệ

Đây là điều kiện để năng suất bật lên, chú ý tăng độ gắn kết để kiến tạo giá trị cộng hưởng (1+1=11); đặc biệt trong các ngành trước đây phát triển mạnh theo chiều rộng, thiếu gắn kết như may mặc, giày dép.

Không một quốc gia nào tăng năng suất nhanh nếu ngành nghề phân tán.

Thâm Quyến, Hàng Châu, Bangalore, Dublin, Suwon hay Singapore đều là minh chứng rằng cụm ngành là “siêu động cơ năng suất”.

Các siêu đô thị Việt Nam (Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng) cần trở thành những cực tăng trưởng với cụm ngành rõ ràng.

4. Chuyển đổi số - dữ liệu - AI

Đây là động lực quyết định trong thập niên tới

Kinh nghiệm UAE và Ấn Độ cho thấy: năng suất tăng nhanh nhất khi nền kinh tế và chính phủ tận dụng được AI và dữ liệu để tối ưu hóa vận hành.

Việt Nam cần: dữ liệu quốc gia liên thông; nền tảng AI mở; ứng dụng AI trong thuế, hải quan, y tế, logistics, dịch vụ công.

AI không chỉ giúp doanh nghiệp tăng năng suất, mà còn giúp Chính phủ nâng tốc độ xử lý công việc lên nhiều lần.

5. Phát triển nhân tài và năng lực hấp thụ tri thức (absorptive capacity)

Đức có hệ thống đào tạo nghề kép; Singapore có SkillsFuture; Ấn Độ có lực lượng kỹ sư công nghệ hùng hậu; Đài Loan xây dựng ITRI như “nhà máy ươm công nghệ”.

Việt Nam phải coi phát triển nhân lực là trung tâm của tăng năng suất, với các chính sách như: chuẩn kỹ năng mới cho 20-25 triệu lao động; chương trình AI và kỹ năng số quốc gia; cơ chế thu hút chuyên gia toàn cầu; đầu tư mạnh vào đại học - viện nghiên cứu.

KTSG: Việt Nam đang hướng tới tăng trưởng kinh tế dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, để đạt mức tăng trưởng cao và bền vững. Như vậy cũng đồng thời thúc đẩy tăng NSLĐ. Vấn đề là làm thế nào để điều này khả thi, thưa ông? Việc huy động nội lực và tận dụng ngoại lực cần thực hiện như thế nào?

- Đây sẽ trở thành vấn đề tâm điểm nhất một khi chúng ta đã vượt qua các thách thức “cấu trúc tử huyệt” và “điểm nghẽn vận hành”.

Để tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần một chiến lược bao gồm bốn trụ cột lớn:

1. Phát huy nội lực: nhân lực - doanh nghiệp - thể chế - dữ liệu

Nhân lực: Cần chuyển từ mô hình đào tạo bằng cấp sang mô hình đào tạo kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng số, AI, kỹ thuật công nghiệp. Đây là bài học thành công của Đức, Ấn Độ, Singapore.

Doanh nghiệp: Phải nâng năng lực quản trị, công nghệ, tiêu chuẩn, và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp nâng cấp, thay vì duy trì mô hình cũ.

Thể chế: Nên chấp nhận đổi mới thể chế theo tinh thần “thử - sai - điều chỉnh”, tương tự Singapore và UAE.

Dữ liệu: Phải xem dữ liệu là tài sản quốc gia, là nền tảng để AI thúc đẩy năng suất.

2. Tận dụng ngoại lực: FDI công nghệ cao và hợp tác quốc tế

Ireland thành công nhờ FDI chất lượng cao; Ấn Độ học hỏi nhanh nhờ hợp tác với Mỹ và châu Âu; Trung Quốc bứt phá nhờ tiếp nhận công nghệ từ Nhật, Đức và sau đó tự phát triển.

Việt Nam cần ưu tiên:

- FDI trong bán dẫn, AI, công nghiệp 4.0.

- Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) của các tập đoàn lớn.

- Ký kết hợp tác chiến lược về đào tạo - chuyển giao công nghệ.

3. Chính phủ phải đi đầu trong ứng dụng công nghệ

UAE là ví dụ rõ nhất: năng suất tăng không chỉ trong khu vực tư nhân mà trong cả hệ thống công. Chính phủ thông minh tạo niềm tin, giảm chi phí xã hội và thúc đẩy đổi mới.

Việt Nam cần đặt mục tiêu: Chính phủ là người sử dụng AI lớn nhất quốc gia.

4. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và cụm ngành chất lượng cao

Những mô hình như Bangalore (Ấn Độ), Thâm Quyến (Trung Quốc), Suwon (Hàn Quốc), Dresden (Đức), Dublin (Ireland)... đều cho thấy vai trò quyết định của cụm ngành.

Việt Nam cần: cụm bán dẫn phía Bắc; cụm công nghệ số - tài chính số ở TPHCM; cụm logistics thông minh ở Hải Phòng; cụm đổi mới sáng tạo ở Đà Nẵng.

Tóm lại, kinh nghiệm quốc tế cho thấy một nguyên lý xuyên suốt, năng suất không tăng vượt bậc nhờ cải tiến nhỏ, mà nhờ chuyển đổi lớn của cả hệ thống kinh tế.

Để năng suất tăng 8,5%/năm và tiến tới mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số, Việt Nam phải có cải cách đột phá trong giải quyết triệt để các “cấu trúc tử huyệt”, kích hoạt quá trình tăng trưởng nội sinh dây chuyền như trong phản ứng nguyên tử. Đồng thời, cần triển khai đồng bộ: tái cơ cấu ngành theo hướng công nghệ cao; nâng cấp doanh nghiệp nội địa; phát triển nhân lực và năng lực hấp thụ tri thức; thúc đẩy dữ liệu - AI - chuyển đổi số; xây dựng cụm ngành chiến lược; và xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển với năng lực điều phối mạnh.

Nếu đi đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào giai đoạn tăng trưởng cất cánh giống như Hàn Quốc thập niên 1980, Ireland thập niên 1990, Trung Quốc thập niên 2000 và Ấn Độ đang nỗ lực bước vào hiện nay.

Hoàng Hạnh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tang-nang-suat-lao-dong-viet-nam-giai-doan-2026-2030-phai-bat-dau-tu-mat-tran-cau-truc-tu-huyet/