Tăng quản lý, bảo vệ đất hiếm
Đất hiếm giữ vai trò chiến lược trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng, mới nổi như công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng và công nghiệp quốc phòng. Nếu cơ sở pháp lý sớm được hoàn thiện, sớm đi vào cuộc sống sẽ là điều kiện để Việt Nam phát triển thành công ngành công nghiệp đất hiếm, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.

Nhu cầu đất hiếm ngày càng cao nhưng nguồn cung đang bị hạn chế
Tài nguyên chiến lược đặc biệt
Đất hiếm giữ vai trò chiến lược trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng, mới nổi như công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng và công nghiệp quốc phòng với nhu cầu sử dụng ngày càng gia tăng. Nhận ra tầm quan trọng của đất hiếm từ sớm, năm 1958, Việt Nam đã triển khai các hoạt động tìm kiếm, nghiên cứu về trữ lượng đất hiếm, và cho đến nay đã phát hiện ra năm mỏ có quy mô lớn tại khu vực Tây Bắc, gồm: Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai) và Yên Phú (Yên Bái).
Theo tờ trình của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng trình Quốc hội ngày 4/11, nhu cầu về đất hiếm dự kiến sẽ tăng mạnh trong thập kỷ tới do sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo và ô tô điện. Trong khi đó, nguồn cung đang bị hạn chế và phân bố không đều, khiến đất hiếm trở thành yếu tố cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia.
Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 đã có những quy định về quản lý khoáng sản chiến lược, quan trọng (trong đó có đất hiếm), đã yêu cầu việc khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; khuyến khích các tổ chức, cá nhân có năng lực về vốn, công nghệ, thiết bị tham gia đầu tư khai thác khoáng sản; điều tiết nguồn thu từ khoáng sản để bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đất hiếm hiện nay là một loại hàng hóa đặc biệt, tạo ra ảnh hưởng lớn đến quốc phòng, an ninh, ngoại giao trên toàn thế giới dẫn đến yêu cầu phải có những cơ chế quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động có liên quan đối với loại hình khoáng sản này.
Do đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho rằng, việc bổ sung các quy định riêng về quản lý, chế biến và sử dụng đất hiếm là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tạo động lực thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản đất hiếm một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Điều này cũng giúp mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước trong bối cảnh thế giới đang thiếu hụt nguồn cung đất hiếm như hiện nay.
Tuy nhiên, dẫn thực tế tại Lai Châu, ĐBQH Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu) cho biết, tỉnh có trữ lượng đất hiếm nằm rải rác ở khu vực thuộc huyện Tam Đường trước đây, trải dài 60 ha, rất khó cho công tác quản lý; kinh phí của địa phương cho công tác này cũng khó khăn. Trong khi đó, dự thảo Luật nêu: Khu vực dự trữ khoáng sản và bảo vệ khoáng sản đất hiếm là khu vực có khoáng sản đất hiếm nhưng chưa khai thác, cần được bảo vệ và được xác định căn cứ vào kết quả điều tra địa chất về khoáng sản, kết quả thăm dò khoáng sản đất hiếm. Quy định này vẫn chưa rõ về chính sách bảo vệ đất hiếm. Nếu không nêu rõ “bảo đảm kinh phí để bảo vệ đất hiếm” mà giao về cho địa phương sẽ rất khó khăn, vì đất hiếm nằm trải dài, cần có kinh phí để rào lại.
Do đó, ĐBQH Hoàng Quốc Khánh đề nghị tại khoản 6, Điều 85a cần bổ sung theo hướng, Nhà nước có chính sách dự trữ, điều tiết và bảo đảm kinh phí để bảo vệ đất hiếm, điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đất hiếm trong từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội, thay vì chỉ nêu “Nhà nước có chính sách dự trữ đất hiếm, điều tiết hoạt động xuất khẩu…” như dự thảo Luật.
Quy định rõ, có tiêu chí cụ thể
Bên cạnh đó, ĐBQH Nguyễn Thị Lan Anh (Lào Cai) cho rằng, Chính phủ cần quy định chặt chẽ về khái niệm, phân loại đất hiếm, bởi mỗi vùng có đất hiếm nặng, nhẹ khác nhau, kèm theo đó là công nghệ thăm dò, khai thác, chế biến phù hợp mới tận dụng tối đa đất hiếm. Việc thăm dò đất hiếm là bí mật quốc gia nên không thể giao tràn lan sẽ khó quản lý nhưng cần xác định rõ tiêu chí để lựa chọn chỉ định đơn vị được phép thăm dò.
Ngoài ra, hoạt động chế biến sâu đất hiếm đòi hỏi sử dụng các chất hóa học nên dù công nghệ tiên tiến vẫn gây ra tác động tới môi trường. Bởi vậy, cần có quy định chế biến sâu đất hiếm phải gắn liền với công tác bảo vệ môi trường và khắc phục môi trường sau chế biến. Hoạt động chế biến sâu đất hiếm phải gắn với xây dựng hệ sinh thái công nghiệp hiện đại để nâng cao chuỗi giá trị trong nước, bảo đảm tự chủ trong thực hiện chiến lược quốc gia về đất hiếm là rất cần thiết, ĐBQH Nguyễn Thị Lan Anh khẳng định.
Liên quan đến vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải đề nghị, thiết kế một chương riêng quy định về nguyên tắc quản lý các loại khoáng sản chiến lược quan trọng nói chung và một số quy định về quản lý đất hiếm nói riêng. Đồng thời, cân nhắc bổ sung thêm quy định: cần có ý kiến bằng văn bản của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trước khi cấp phép thăm dò, khai thác đất hiếm tại khu vực nhạy cảm liên quan đến quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, bổ sung quy định về việc kiểm soát cũng như cơ chế hậu kiểm khi cắt giảm thủ tục hành chính trong thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm 3, nhóm 4, tuyệt đối tránh tình trạng lạm dụng chính sách thông thoáng để trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài nguyên khoáng sản, khó khắc phục.
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tang-quan-ly-bao-ve-dat-hiem-173172.html












