Tăng trưởng GDP quý 2/2023 lạc quan hơn thực tế, Tổng cục Thống kê nói gì?
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới biến động phức tạp, không thuận lợi, tình hình trong nước cũng có nhiều rủi ro, thách thức, nhiều ý kiến cho rằng mức tăng trưởng GDP quý 2/2203 đạt 4,14% là hơi lạc quan so với thực tế...
Xoay quanh vấn đề này, Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy đã trao đổi với bà Nguyễn Thị Mai Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Thống kê Tài khoản quốc gia (Tổng cục Thống kê).
Thưa bà, nhiều ý kiến cho rằng mức tăng trưởng GDP quý 2/2023 đạt 4,14% là hơi lạc quan so với thực tế khó khăn mà nền kinh tế phải đối mặt. Bà có quan điểm như thế nào về vấn đề này?
Tổng cục Thống kê ước tính số liệu GDP quý 2/2023 và 6 tháng năm 2023 dựa vào nguồn thông tin, dữ liệu của các cuộc điều tra chọn mẫu hàng tháng, quý của các ngành, lĩnh vực; từ dữ liệu hành chính của các Bộ, ngành, địa phương và số liệu, báo cáo của các tập đoàn, tổng công ty. Dữ liệu vi mô đã cho thấy nhiều ngành, lĩnh vực trong quý 2 đã tốt lên so với quý 1/2023.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 6 tháng đầu năm ước tăng 3,72% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020 trong giai đoạn 2011-2023 (trong đó sơ bộ quý 1/2023 tăng 3,28%, ước tính quý 2/2023 tăng 4,14%). Đây là mức tăng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đã đề ra. Lý do, toàn ngành công nghiệp có tốc độ tăng giá trị tăng thêm chỉ đạt 0,44%. Trong đó, công nghiệp chế biến chế tạo các năm trước đây là động lực tăng trưởng kinh tế, nay chỉ đạt tốc độ khiêm tốn với giá trị tăng thêm 6 tháng ước tăng 0,37% do sản xuất hàng gia công (may mặc, da giày, điện tử, đồ gỗ… ) sụt giảm, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2022 vì nhu cầu thị trường thế giới suy giảm, thiếu hụt đơn hàng.
Theo quý, tăng trưởng GDP quý 2/2023 đạt 4,14% so với cùng kỳ, cao hơn 0,86 điểm phần trăm so với mức tăng 3,28% của quý 1/2023. Trong đó, khu vực công nghiệp đã có chuyển biến tích cực, tạm thời chấm dứt đà tăng trưởng âm từ quý 1/2023 (âm 0,75%), đạt mức tăng 1,56%; đáng chú ý là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 1,18% (quý 1/2023 tăng trưởng âm 0,49%); ngành xây dựng cũng tăng mạnh với mức tăng 7,05%, cao hơn mức tăng 4,94% của cùng kỳ năm trước; điểm sáng nhất vẫn là khu vực dịch vụ với mức tăng 6,11%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng tăng trưởng khá tốt đạt 3,25% so với cùng kỳ.
Trong khó khăn chung của kinh tế thế giới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý 2/2023 không đạt như kỳ vọng, tuy nhiên mức tăng trưởng đã được cải thiện hơn so với quý 1/2023, biểu hiện qua số liệu phản ánh kết quả hoạt động của các ngành, lĩnh vực như tăng trưởng khu vực dịch vụ tiếp tục được phục hồi với mức tăng 6,11% so với cùng kỳ (quý 1/2023 là 6,56%); có 27,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh trong quý 2/2023 tốt hơn so với quý 1/2023; hoạt động xuất khẩu quý 2/2023 giảm 14,2% so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 2,9% so với quý 1/2023…
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong phân tích, đánh giá, nhất là khi so sánh tốc độ tăng trưởng GDP và một số chỉ tiêu liên quan giữa các quý trong cùng năm sẽ không có ý nghĩa khi các chỉ tiêu biểu hiện chưa được loại trừ yếu tố mùa vụ. Để đánh giá, so sánh mức độ tăng trưởng của các ngành, các lĩnh vực thường được so với cùng kỳ năm trước để loại bỏ yếu tố mùa vụ.
Như bà chia sẻ ở trên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù xấu đi rất nhiều nhưng quý 2/2023 lại tăng trưởng dương và cao hơn quý 1/2023. Bà có thể phân tích rõ hơn về nội dung này?
Trong giai đoạn 2011-2022, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn đóng vai trò trụ đỡ, dẫn dắt tăng trưởng kinh tế, với mức tăng trung bình khoảng 8,9%, chiếm 24% và đóng góp hơn 2 điểm phần trăm trong tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế.
Thậm chí trong thời kỳ Covid-19, giai đoạn 2020-2021, khi nền kinh tế suy giảm nhưng ngành công nghiệp chế biến chế tạo vẫn đạt mức tăng trưởng hơn 5,5%, đóng góp hơn 1,3 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Từ quý 4/2022 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát các nước đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt, cầu tiêu dùng suy giảm, đặc biệt tăng trưởng kinh tế chậm lại ở các nước đối tác thương mại lớn của Việt Nam, như Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro đã ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu các sản phẩm từ Việt Nam, đặc biệt với những sản phẩm thế mạnh xuất khẩu cho tiêu dùng của các nước như may mặc, đồ gỗ, sản phẩm điện tử, ….
Năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn với những biến động khó lường, lạm phát ở nhiều nước mặc dù hạ nhiệt những vẫn ở mức cao. Ở trong nước, đơn hàng sản xuất giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm; chỉ số PMI của Việt Nam tháng 6 tăng lên mức 46,2 điểm, cao hơn mức 45,3 điểm của tháng 5 nhưng vẫn nằm dưới 50 điểm ở tháng thứ tư liên tiếp. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý 1/2023 giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo (chiếm tới trên 75% giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp) giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước.
Sang quý 2/2023, ngành công nghiệp có những chuyển biến tích cực hơn so với quý 1/2023, tuy nhiên tăng trưởng vẫn đang ở mức thấp do những khó khăn, thách thức chung của thế giới ảnh hưởng đến xuất khẩu, thu hút đầu tư…, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về dòng tiền, thị trường và đơn hàng. Chỉ số sản xuất công nghiệp quý 2/2023 tăng nhẹ 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm nhẹ 0,4%, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 1,18%.
Xu hướng tích cực công nghiệp chế biến, chế tạo quý 2/2023 so với quý I/2023 thể hiện qua một số kết quả sau:
Một là, có 15/24 ngành công nghiệp cấp II thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo sản xuất quý 2/2023 có xu hướng tốt hơn quý 1/2023, đặc biệt một số ngành có thế mạnh về xuất khẩu có chỉ số sản xuất và tăng trưởng tốt hơn như ngành dệt tăng 2,9% (quý 1 giảm 7,4%) so với cùng kỳ 2022; ngành sản xuất trang phục vẫn giảm nhưng tốc độ giảm chậm hơn, chỉ số sản suất quý 2/2023 giảm 4,4% (quý 1/2023 giảm 9,3%) so với cùng kỳ; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 3,5% (quý 1/2023 giảm 5,4%) so với cùng kỳ; …
Hai là, số doanh nghiệp thực tế tham gia thị trường tăng mạnh ở quý 2/2023 với bình quân một tháng có hơn 5,6 nghìn doanh nghiệp ra nhập thị trường, trong khi quý 1/2023 giảm 1,1 nghìn doanh nghiệp.
Ba là, trong quý 2/2023, xuất khẩu một số mặt hàng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ lực cũng có xu hướng tốt lên so với quý 2/2023.
Bốn là, chỉ số tiêu thụ và tỷ lệ tồn ngành công nghiệp chế biến chế tạo cũng được cải thiện hơn trong quý 2/2023.
Năm là, các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến chế tạo nhận định tình hình sản xuất kinh doanh khả quan hơn trong quý 2/2023.
Để ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phục hồi, tiếp tục là động lực tăng trưởng trong các tháng cuối năm, theo bà cần có những giải pháp gì?
Để ngành ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phục hồi, tiếp tục là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng cuối năm, một số giải pháp cần thực hiện để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp:
Thứ nhất, cần duy trì, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo niềm tin cho người dân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh; điều hành tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo động lực tăng trưởng; điều hành tỷ giá phù hợp, tăng cường năng lực thích ứng, chống chịu và an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng; khơi thông dòng vốn và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp khắc phục khó khăn và đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh;
Thứ hai, đẩy mạnh sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các mặt hàng sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào nội địa để hạn chế nhập khẩu và chủ động nguồn cung. Thường xuyên rà soát để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm...
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm hiệu quả; tận dụng môi trường thương mại số đã được hình thành trong thời gian qua, tích cực triển khai đồng bộ và hoàn thiện hệ thống lưu thông giữa các nhà sản xuất, thương mại và tiêu dùng nhằm đẩy nhanh hoạt động tiêu thụ cũng như kiểm soát tốt hoạt động kinh tế.
Thứ tư, đảm bảo nguồn điện ổn định, đáp ứng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hộ cá thể và nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong mùa cao điểm nắng nóng.
Thứ năm, các đơn vị sản xuất, kinh doanh cần bám sát thị trường mở rộng hoạt động tìm kiếm khách hàng mới; tăng cường kết nối chuỗi sản xuất - tiêu thụ; cân đối lượng tồn kho và tiêu thụ để bảo đảm dòng tiền cũng như chất lượng sản phẩm, bố trí sản xuất linh hoạt để duy trì hoạt động sản xuất tối ưu.