Tạo hành lang pháp lý thực hiện khát vọng tăng trưởng 2 con số

Đợt 2, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV diễn ra vào tuần tới tiếp tục thông qua nhiều luật, nghị quyết. PGS-TS. Phạm Thế Anh, giảng viên Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) nhận định, các luật, nghị quyết quan trọng thông qua tại kỳ họp này sẽ tạo cơ chế, chính sách để thực hiện mục tiêu, khát vọng tăng trưởng kinh tế ở mức 2 con số trong giai đoạn 2026-2030.

PGS-TS. Phạm Thế Anh, giảng viên Đại học Kinh tế quốc dân (NEU)

PGS-TS. Phạm Thế Anh, giảng viên Đại học Kinh tế quốc dân (NEU)

Chưa có kỳ họp nào mà Quốc hội thông qua nhiều luật, nghị quyết như Kỳ họp thứ 9. Ông có nghĩ, đây là việc chuẩn bị về thể chế để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số vào giai đoạn tới?

Kỳ họp thứ 9 có thời gian làm việc kỷ lục, với 11 nghị quyết và 34 luật dự kiến thông qua. Số lượng văn bản pháp luật được thông qua tại một kỳ họp cũng đạt mức kỷ lục, gấp nhiều lần bình quân của các kỳ họp trước.

Ngoài các luật và nghị quyết được thông qua theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có từ trước, thì nhiều luật, nghị quyết quan trọng được thông qua nhằm tạo đột phá về thể chế, hành lang pháp lý, phá bỏ các lực cản, phát huy tối đa năng lực nội tại, năng lực tiềm năng của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, để mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế rất cao và quan trọng hơn là phải bền vững.

Tăng trưởng kinh tế 2 con số không chỉ là mục tiêu, mà còn là khát vọng. Theo ông, làm thế nào để đạt được khát vọng này?

Đợt 1của Kỳ họp thứ 9 (từ ngày 5/5/2025 đến ngày 29/5/2025) đã thông qua 8 nghị quyết nhằm thể chế hóa 4 nghị quyết của Bộ Chính trị được coi là “bộ tứ trụ cột”, gồm Nghị quyết 57-NQ/TW (ngày 22/12/2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW (ngày 24/1/2025) về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66-NQ/TW (ngày 30/4/2025) về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 68-NQ/TW (ngày 4/5/2025) về phát triển kinh tế tư nhân. Đây được coi là những trụ cột nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới.

Trong kỷ nguyên 4.0, phát triển kinh tế không thể dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, mà phải dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Xu hướng bảo hộ, thậm chí bảo hộ cực đoan gần đây manh nha trở lại, nhưng trong “thế giới phẳng” hội nhập quốc tế là tất yếu, Việt Nam lựa chọn hội nhập sâu rộng thay vì bảo hộ. Thể chế được “điểm mặt, chỉ tên” là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, muốn phát triển phải gỡ bỏ điểm nghẽn này càng nhanh càng tốt. Cuối cùng, không quốc gia nào phát triển mà dựa vào đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp nhà nước cả, đều phải phát triển doanh nghiệp tư nhân.

Bốn nghị quyết của Đảng và các nghị quyết của Quốc hội (thể chế hóa nghị quyết của Đảng) đã đặt nền móng, tạo nền tảng đưa nền kinh tế bước vào kỷ nguyên tăng trưởng mới.

Cơ sở pháp lý cao nhất đã có, nền tảng, nền móng đã được xây dựng, nhưng vẫn còn khoảng cách từ nghị quyết đến cuộc sống, thưa ông?

Nghị quyết của Đảng, Quốc hội đã được ban hành, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương thể chế hóa bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể, tránh trường hợp như lâu nay là khoảng cách từ nghị quyết đến cuộc sống khá xa vì văn bản hướng dẫn chậm ban hành, không đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn.

Chỉ còn khoảng nửa năm nữa đã bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030 với mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 2 con số, nên phải khẩn trương đưa nghị quyết vào cuộc sống, giúp cho khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, không còn gặp khó khăn, vướng mắc, cản trở, kìm hãm, để khu vực này tập trung nguồn lực phát triển, trở thành trụ cột quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế cả trung và dài hạn.

Trong các nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua, có Nghị quyết 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Nghị quyết này đã đưa ra nhiều cơ chế, chính sách đặc biệt về tài chính với định mức vượt trội và khoán chi theo nhiệm vụ, hoạt động; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người tham gia công tác xây dựng, thực thi pháp luật gắn với chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, vị trí việc làm. Mục tiêu của nghị quyết này chính là hoàn thiện thể chế, phá bỏ rào cản, gỡ bỏ mọi khó khăn để thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm của sự phát triển.

“Có bột mới gột nên hồ”, vấn đề phải có nguồn lực tài chính thì mới thực hiện được khát vọng tăng trưởng cao?

Tại kỳ họp này, Quốc hội cũng thông qua Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, sau khi đã thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng vào cuối năm 2024 và sẽ thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân vào năm tới. Ngoại trừ thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm mục tiêu hạn chế tiêu dùng, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không khuyến khích, tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe cộng đồng, các luật thuế còn lại đều hướng đến giảm mức đóng góp của người dân và doanh nghiệp.

Thuế thu nhập cá nhân đang được Bộ Tài chính xây dựng cũng giảm sự đóng góp của người dân thông qua nâng mức giảm trừ gia cảnh, giãn các bậc thuế suất, tạo điều kiện cho người dân tăng chi tiêu, phát triển thị trường nội địa.

Kể từ năm 2020 trở lại đây, Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện miễn, giảm, gia hạn hầu hết các loại thuế, phí, lệ phí, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng, nhưng ngân sách nhà nước vẫn tăng thu. Nhờ được giảm thuế, phí, lệ phí mà người dân tăng chi tiêu, thị trường nội địa phục hồi và tăng trưởng trở lại sau đại dịch Covid-19. Đây chính là “bột” để gột nên “hồ”.

Trong quá khứ, Việt Nam chưa bao giờ tăng trưởng kinh tế ở mức 2 con số. Ông nhận định thế nào về khả năng thực hiện mục tiêu này?

NEU vừa thực hiện đề tài nghiên cứu “Nền tảng và xu hướng chính sách kinh tế vĩ mô cho tăng trưởng kinh tế cao”. Nghiên cứu của NEU chỉ ra rằng, trung bình trong giai đoạn 1990 - 2024, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta đạt khoảng 6,73%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này lại có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ: từ 7,41% trong giai đoạn 1990 - 1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000 - 2009, xuống 6,3% trong giai đoạn 2010 - 2019. Từ năm 2020, tăng trưởng bình quân chỉ còn đạt 5,14% khi mô hình tăng trưởng thiên về dựa vào vốn đang dần chạm tới hạn.

Để trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045 không còn con đường nào khác là phải tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Đây là bài học kinh nghiệm của các nền kinh tế thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Trung Quốc đã trải qua.

Trong hơn 3 thập kỷ qua, Việt Nam lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu như các nước kể trên và đã gặt hái được nhiều trái ngọt. Nhưng bối cảnh ngày nay khác với thời kỳ cách đây 40-50 năm, vì vậy, Việt Nam cần phải đi bằng nhiều cách. Một mặt vẫn dựa vào đầu tư và xuất khẩu, nhưng quan trọng hơn là phát triển thị trường nội địa, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ và lấy doanh nghiệp tư nhân làm nền tảng. “Bộ tứ chiến lược” đã hoạch định những vấn đề cơ bản, cốt lõi để thực hiện khát vọng tăng trưởng cao và bền vững.

Mạnh Bôn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tao-hanh-lang-phap-ly-thuc-hien-khat-vong-tang-truong-2-con-so-d297531.html