Tạo thị trường lao động linh hoạt để tận dụng lợi thế dân số vàng
Luật Dân số được thông qua ngày 10/12/2025 không chỉ thay thế Pháp lệnh Dân số 2003, mà đi kèm với sự ra đời của Luật còn là yêu cầu cấp thiết hoàn thiện thể chế và xây dựng một thị trường lao động linh hoạt, năng động và bền vững - mục tiêu thiết thực để chuyển hóa cơ cấu dân số thuận lợi thành nguồn nhân lực chất lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.
Số lượng người trong độ tuổi lao động cao tác động đến thị trường lao động
Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng của năm 2025 cho thấy, lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý III/2025 đều tăng so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, tăng 556,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; lao động có việc làm là 52,0 triệu người, tăng 552,3 nghìn người; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,22% và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%.
Trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý III/2025 là 29,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 29,1%, tăng 1,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy chất lượng nguồn lao động đang dần được nâng cao.
Thống kê cũng cho thấy, tính chung 9 tháng năm 2025, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động (theo khái niệm của Cục Thống kê, người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần) là 764,2 nghìn người, giảm 150,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%, giảm 0,34 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,92%, giảm 0,54 điểm phần trăm.
Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng (bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay) của Việt Nam thường dao động ở mức 4,0%. Tỷ lệ này tăng rất nhanh từ thời điểm quý I/2020 và đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III/2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Quý III/2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,4% (tương ứng khoảng 1,83 triệu người). Tính chung 9 tháng năm 2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,7%, giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 3,6% giảm 0,2 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 3,8%, giảm 0,8 điểm phần trăm…
Những con số từ tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng của năm 2025 cho thấy thực tế thị trường lao động Việt Nam đang chuyển dịch mạnh mẽ trên cơ sở tỷ lệ người trong độ tuổi lao động rất cao.
Nhưng hiện nay, trong bối cảnh việc làm theo hợp đồng ngắn hạn, làm việc tự do (freelance - là hình thức cá nhân làm việc độc lập, không thuộc biên chế cố định của bất kỳ công ty nào, nhận dự án từ nhiều khách hàng khác nhau và tự chủ về thời gian, địa điểm làm việc, được trả công theo sản phẩm hoặc dự án hoàn thành, thay vì lương cố định - PV), nền kinh tế nền tảng (platform economy - là mô hình kinh doanh hiện đại, tập trung vào các nền tảng kỹ thuật số như ứng dụng, website… để kết nối nhiều nhóm người dùng (người mua/bán, người cung cấp/sử dụng dịch vụ nhằm tạo ra giá trị, sản phẩm, dịch vụ mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số, vận hành dựa trên Internet, dữ liệu và công nghệ để giảm chi phí, tăng hiệu quả và thay đổi cách thức kinh doanh truyền thống - PV) ngày càng phổ biến, đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách lao động linh hoạt, thì việc tận dụng hợp lý nguồn nhân lực này vẫn còn là vấn đề phải bàn.
Thể chế và thị trường lao động linh hoạt - yếu tố quyết định
Trước khi Luật Dân số 2025 có hiệu lực vào ngày 10/12/2025, dân số Việt Nam đã vượt mốc hơn 101 triệu dân vào năm 2024, với cấu trúc dân số trẻ và lực lượng lao động đông đảo. Đây là thời kỳ dân số vàng, được hiểu là giai đoạn dân số trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao hơn đáng kể so với người phụ thuộc (trẻ em và người cao tuổi), tạo ra nguồn lực lao động to lớn cho phát triển kinh tế. Đây là nền tảng, cơ hội cho Việt Nam tận dụng để tăng trưởng và phát triển.
Nhưng dân số vàng là “cơ hội có điều kiện” vì cơ hội chỉ trở thành lợi thế thực sự khi thể chế và thị trường lao động được thiết kế linh hoạt, phù hợp với bối cảnh mới. Để tận dụng được cơ hội “dân số vàng” đòi hỏi Chính phủ cần có những chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tăng năng suất lao động.

Chuyển hóa cơ cấu dân số thuận lợi thành nguồn nhân lực chất lượng, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới. (Ảnh minh họa - Nguồn: VGP)
Có thể thấy những vấn đề đang được đặt ra để biến dân số vàng thành “dân số vàng chất lượng cao” như: hoàn thiện thể chế và chính sách (cơ chế pháp lý cho các hình thức làm việc mới (làm việc từ xa, bán thời gian, hợp đồng ngắn hạn), bảo vệ quyền lợi người lao động, nhưng vẫn khuyến khích sử dụng lao động linh hoạt); đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, lao động để doanh nghiệp dễ tuyển dụng và người lao động dễ tìm việc; mở rộng bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, hưu trí linh hoạt (đóng góp theo thu nhập), hỗ trợ người lao động khi chuyển đổi việc làm, người cao tuổi; khuyến khích đổi mới sáng tạo (chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, chuyển đổi số, tạo việc làm chất lượng cao…).
Cạnh đó, việc xây dựng thị trường lao động linh hoạt và hiệu quả cũng rất quan trọng thông qua nâng cao kỹ năng và đào tạo nghề (bao gồm đào tạo lại sát với nhu cầu doanh nghiệp, tập trung vào kỹ năng số, kỹ năng mềm); gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và người lao động; phát triển thị trường lao động số; khuyến khích di chuyển lao động giữa các vùng, địa phương để tìm việc làm phù hợp, giảm áp lực thất nghiệp cục bộ; đa dạng hóa hình thức việc làm qua mô hình kinh tế chia sẻ, việc làm tự do…
Tại Việt Nam, trong năm 2025, một loạt cải cách về thị trường lao động đang được thực thi, nổi bật là việc sửa đổi Luật Lao động và Luật Việc làm, hướng tới mở rộng tham gia bảo hiểm xã hội và thị trường lao động chính thức cho nhiều nhóm lao động. Những thay đổi này nhắm tới thúc đẩy cơ hội việc làm linh hoạt hơn, đặc biệt cho lao động trẻ - nhóm chiếm tỷ lệ lớn trong dân số vàng.
Đi cùng với thị trường lao động linh hoạt, hệ thống an sinh xã hội cũng mở rộng để bảo vệ lao động không truyền thống. Bài toán bao phủ bảo hiểm xã hội cho người lao động nằm trong hợp đồng ngắn hạn, bán thời gian hay tự do là yêu cầu cấp thiết nhằm giảm rủi ro thất nghiệp và an sinh trong bối cảnh chuyển dịch nghề nghiệp nhanh. Theo các chuyên gia, việc phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là một trong những giải pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm người lao động không bị “mất bảo hiểm” khi họ thay đổi hoặc lựa chọn công việc linh hoạt hơn trong tương lai…
Có thể khẳng định, Luật Dân số không hoạt động độc lập mà liên kết chặt chẽ với các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, bao gồm giáo dục nghề nghiệp, thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách giáo dục và chính sách thu hút đầu tư. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã chủ động xây dựng chính sách dân số gắn liền với chiến lược phát triển lao động và an sinh bền vững. Sự liên kết này tạo điều kiện để chuyển hóa dân số vàng thành “vàng kinh tế” thông qua đào tạo kỹ năng, nâng cao chất lượng lao động và gia tăng năng suất lao động.
Do đó, tại Việt Nam, việc đồng bộ hệ thống pháp luật về dân số với các luật liên quan đến lao động, đào tạo nghề, bảo hiểm và an sinh xã hội sẽ tạo ra một khung thể chế toàn diện, bảo đảm tính ổn định, minh bạch và hiệu quả trong quản lý nguồn nhân lực.
Việc Quốc hội thông qua Luật Dân số là bước thể chế quan trọng trong tổng thể cải cách, khẳng định quyết tâm của Quốc hội và Chính phủ trong việc hướng đến phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu của Nhân dân và thị trường lao động thế hệ mới. Để tận dụng lợi thế dân số vàng, không gì quan trọng hơn việc hoàn thiện thể chế và tạo ra một thị trường lao động linh hoạt, hiện đại và nhân văn. Luật Dân số và các chính sách liên quan sẽ là trụ cột để xây dựng nền kinh tế năng động, bền vững và cạnh tranh trong kỷ nguyên mới.











