Thăm làng tranh dân gian Đông Hồ ở Bắc Ninh

Tranh dân gian Đông Hồ là nghề làm tranh khắc gỗ dân gian, thuộc lĩnh vực nghề thủ công truyền thống, được cộng đồng dân làng Đông Hồ (phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) sáng tạo và phát triển từ mấy trăm năm qua, có giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc.

Làng tranh dân gian Đông Hồ nay thuộc phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Bảo Ân

Làng tranh dân gian Đông Hồ nay thuộc phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Bảo Ân

Theo Cục Di sản văn hóa, trong các dòng tranh dân gian ở Việt Nam, tranh Đông Hồ thuộc dòng tranh in từ ván khắc gỗ, do người dân làng Đông Hồ sáng tạo, sản xuất và phát triển thành làng nghề. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền, cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt.

Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền. Ảnh: Bảo Ân

Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền. Ảnh: Bảo Ân

Để thể hiện một bức tranh, ngoài bản nét đen chủ đạo, tranh mẫu có bao nhiêu màu thì cần bấy nhiêu bản gỗ khắc in màu tương ứng. Đặc biệt, giấy in là loại giấy dó truyền thống có quét điệp, và màu sử dụng in tranh được chế từ nguồn gốc tự nhiên, như màu vàng của hoa hòe, màu đỏ của hoa hiên, màu trắng từ bột vỏ sò, điệp, và màu đen của than lá tre..., tạo ra mỹ cảm dung dị, độc đáo.

Quá trình sản xuất tranh có nhiều khâu, song có thể tạm chia thành hai công đoạn chính như sau: khâu sáng tác mẫu, khắc ván và khâu in, vẽ tranh. Ảnh: Bảo Ân

Quá trình sản xuất tranh có nhiều khâu, song có thể tạm chia thành hai công đoạn chính như sau: khâu sáng tác mẫu, khắc ván và khâu in, vẽ tranh. Ảnh: Bảo Ân

Về thể loại, dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành bảy loại chính, gồm: tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.

Quá trình sản xuất tranh có nhiều khâu, song có thể tạm chia thành hai công đoạn chính như sau: khâu sáng tác mẫu, khắc ván và khâu in, vẽ tranh. Sáng tác mẫu tranh và khắc ván là khâu quan trọng, quyết định sự sinh tồn của một làng tranh. Công việc sáng tác mẫu tranh tốn rất nhiều thời gian: trước tiên phải lựa chọn đề tài, ý nghĩa, nội dung sâu sắc, màu sắc hài hòa, bố cục chặt chẽ và có giá trị nghệ thuật cao.

Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng. Ảnh: Bảo Ân

Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng. Ảnh: Bảo Ân

Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng, để người thợ khắc đục ván theo mẫu. Việc sáng tác mẫu tranh không phải là việc của riêng các nghệ nhân, mà thường là kết quả chung của một làng tranh, của nhiều thế hệ.

Du khách trải nghiệm tại làng tranh Đông Hồ. Ảnh: Bảo Ân

Du khách trải nghiệm tại làng tranh Đông Hồ. Ảnh: Bảo Ân

Cũng chính vì thế mà trong tranh Đông Hồ, có trường hợp một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau, hoặc một mẫu tranh cũng có đến hai, ba cách phân bố màu khác nhau. Vì vậy, có nhiều mẫu tranh cổ đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được chủ nhân sáng tạo.

Ván khắc in tranh có hai loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét thường được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực. Gỗ thị có thớ đa chiều, vừa mềm, dễ khắc lại vừa dai, do đó khi khắc ván in, nghệ nhân có kỹ năng chạm khắc giỏi sẽ tạo được các nét gọn, mảnh, nhỏ, tinh vi, và ván in lại bền. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục, hay còn gọi là bộ ve, được làm bằng thép cứng. Mỗi bộ ve có khoảng 30 - 40 chiếc.

Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa và thét (chổi làm bằng lá thông). Ảnh: Bảo Ân

Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa và thét (chổi làm bằng lá thông). Ảnh: Bảo Ân

Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa và thét (chổi làm bằng lá thông). Trước kia, chỉ có nghệ nhân làng Hồ sáng tác mẫu mới vẽ tranh bằng tay. Các công đoạn khác trong sản xuất tranh dân gian Đông Hồ đều dùng ván in.

Ngày nay, người ta còn vẽ tranh theo cách thức khác (ngoài in), đó là tô màu, vờn màu trên tranh đã được in ván nét trước (theo lối vẽ tranh Hàng Trống), và vẽ tranh trên giấy trắng hoặc giấy màu bồi.

Tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc. Ảnh: Bảo Ân

Tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc. Ảnh: Bảo Ân

Khi vẽ tranh trên giấy đã in ván nét, người nghệ nhân chỉ việc phân bố màu sắc sao cho hài hòa, hợp lý, thể hiện rõ nội dung của bức tranh, mà vẫn biểu đạt được giá trị thẩm mỹ.

Về giá trị nghệ thuật, so với các dòng tranh khác, tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ, độc đáo trong việc sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều, là màu tự nhiên của cỏ cây, hoa lá, tươi sáng trên nền giấy dó quét điệp óng ánh.

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012. Ảnh: Bảo Ân

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012. Ảnh: Bảo Ân

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, được Chính phủ đồng ý cho lập hồ sơ trình UNESCO và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1), loại hình nghề thủ công truyền thống vào năm 2012.

Theo Cục Di sản văn hóa

Bảo Ân Đăng Huy

Nguồn Sài Gòn Tiếp Thị: https://sgtt.thesaigontimes.vn/tham-lang-tranh-dan-gian-dong-ho-o-bac-ninh/