Thằng mõ mới ngụ cư cam quýt

Đò dọc phải tránh đò ngangNgụ cư phải tránh dân làng cho xa'Đò' là từ 'độ' tiếng Hán - Việt chuyển qua tiếng Việt, theo nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ. Khi ai đó bảo: 'Thành công rồi, việc này có trời độ', ta hiểu là do trời ủng hộ giúp đỡ, chứ không hẳn hiểu theo nghĩa độ/ đò là chở qua sông.

Về câu tục ngữ "Đò nát đụng nhau", “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) giải thích: "Những kẻ cùng hoàn cảnh khốn quẫn như nhau còn va chạm, đối đầu với nhau, dẫn tới cùng chịu chung số phận rủi ro, ví như hai con đò rách nát va vào nhau thì khó tránh khỏi cảnh tan rã từng mảnh, chìm đắm giữa dòng". Xin hỏi, vậy con đò còn ngon lành, còn chắc chắn nhưng chẳng may va chạm nhau thì không bị "tan rã từng mảnh, chìm đắm giữa dòng"?

Thằng mõ, tranh dân gian.

Thằng mõ, tranh dân gian.

Sở dĩ, giải thích như vậy vì từ điển này xét "đụng" theo nghĩa va chạm, ta biết "đụng" có nhiều nghĩa, ở đây lại là cưới nhau: "Chồng nghèo thì vợ cũng nghèo/ Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau" - là lời cảm thán cho hai người cùng kiết xác mồng tơi lại gặp nhau trong tình huống nào đó, chẳng hạn, anh chàng "người ngựa" kéo xe đêm giao thừa không có một xu teng, mong kiếm cuốc xe có tiền sắm Tết; may quá, vớ được "ngựa người" tưởng khách hạng sang nào ngờ chỉ là cô điếm ế cũng rỗng túi, nhà văn Nguyễn Công Hoan cảm thán: "Thật là đò nát đụng nhau"; hoặc nhà văn Tô Hoài có kể câu chuyện về người đàn bà làm công việc nhọc nhằn mà thời trước gọi "cu li san" ở bệnh viện Phủ Doãn lại "đụng" anh chàng cu li khuân vác ga Hàng Cỏ. "Cu li san" là phát âm của từ coolie des salles tiếng pháp nhằm chỉ lao công quét dọn các phòng, vì thế ông thương cảm: "Cảnh đò nát đụng nhau".

Khi nói "Đò giang: Nói chung về các thứ đò" - “Việt Nam tự điển” (1931) giải thích, thế nhưng cơn cớ làm sao "giang" lại xuất hiện? Theo ông Hùinh Tịnh Paulus Của: "Chữ gian với chữ giang đồng một vần, kẻ đưa đò hay ăn cắp, cho nên hiểu ra nghĩa gian tham". Cần xem lại giải thích này, bởi người xưa bảo: "Một ngày nên nghĩa chuyến đò nên quen" kia mà, rồi chẳng lẽ kẻ đưa đò nào cũng hay ăn cắp? Vô lý. Có thể "giang" ở đây là chỉ công việc liên quan đến sông nước chăng?

Có câu ca dao huê tình nhắc đến con đò thật rầu rầu ám ảnh: "Ví dầu tình thiếp dở dang/ Thì cho thiếp mượn đò ngang thiếp về", với từ "đò ngang" ta hình dung ra nhà cô này ở bên kia sông, khác với "đò dọc" là chạy theo chiều dài con sông ghé vào các bến. Thông thường, trong đời người, ai cũng đi đò nhiều lần nhưng tại sao tục ngữ có câu: "Mặt nào mà lại đi hai lần đò"? Truyện thơ “Tỳ bà truyện” của Nguyễn Bính có câu: "Ngũ nương châu lệ đầm đìa/ Chồng con dù chẳng có về cũng thôi/ Cũng đành bỏ héo xuân tươi/ Dám đâu một gái đi hai lần đò" - hiểu theo nghĩa bóng là cưới chồng lần nữa.

"Đò dọc phải tránh đò ngang" là lẽ thường tình, còn "Ngụ cư phải tránh dân làng cho xa" là do cơn cớ gì? Trả lời câu hỏi này, cũng là lúc ta quay về với cấu trúc hình thành làng xã người Việt xưa. Khi đọc “Việt Nam văn hóa sử cương” (NXB Bốn Phương tái bản năm 1951) của nhà văn hóa Đào Duy Anh, ta biết: "Dân làng thường chia ra hai hạng: nội tịch và ngoại tịch. Chỉ dân nội tịch mới có các quyền lợi dân đỉnh ở trong làng, có thể gánh vác việc công và được chia công điền công thổ. Hạng này gồm những văn thân, chức sắc, hào mục, những người địa chủ giàu, cùng những người trước giàu mà bấy giờ suy. Còn hạng dân ngoại tịch, cũng gọi là dân lậu, thì gồm những người bần cùng, và những người ngụ cư (khách tịch)" (tr.125).

Dân ngụ cư không có quyền hành, quyền lợi gì cả, vì thế "Ngụ cư phải tránh dân làng cho xa" là vậy - tránh xa cho lành, không khéo bị ăn hiếp, ức hiếp kẻo mang vạ… Họ được làng giao cho công việc hèn hạ, thấp kém nhất mà dân làng không ai thèm làm: đi đánh mõ rao truyền tất tần tật thông tin của quan chức từ đầu làng đến cuối xóm, bất kể thời gian khuya sớm lẫn thời tiết nắng mưa. Đàn anh nào trong làng cũng có quyền sai khiến. "Khi có việc làng thì lý trưởng và hương chức sai người mõ làng, thường gọi là thằng mõ (vì người ta cho chức mõ làng là vi tiện) đi khắp làng để đánh mõ mời làng ra họp ở đình. Người mõ làng được ít sào ruộng công, và đến mùa gặt thì những nhà giàu có trong làng cho anh ta một vài bó lúa" (tr.130).

Nhà văn Nam Cao viết về Tư cách mõ thật chua chát: "Một thằng mõ đủ tư cách mõ, chẳng chịu kém một anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách mâm bát là hắn đến ngay. Hắn ngồi tít ngoài xa, ngay chỗ cổng vào. Người ta bưng cho một mình hắn một mâm. Hắn trơ tráo ngồi ăn. Ăn xong, còn thừa bao nhiêu, trộn tất cả vào, lấy lá đùm thành một đùm to bằng cái vế đùi, để đem về cho vợ, cho con. Có khi hắn còn xán đến những chỗ người ta thái thịt, dỡ xôi, lấy cắp hoặc xin thêm một đùm to nữa. Hắn bỏ cả hai đùm vào cái tay nải rất to, lần đi ăn cỗ nào hắn cũng đem theo. Thế rồi một tay xách tay nải, một tay chống ba toong, hắn ra về, mặt đỏ gay vì rượu, và trầu, đầy vẻ phè phỡn và hể hả…". Thơ cổ viết về thằng mõ có câu:

Thứ bậc dưới trên, quyền cắt đặt,

Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.

Xét ra thật oách xà lách, "một mình một chiếu" không khác gì bậc tiên chỉ có quyết đoán mọi việc trong làng, "là những người hưu quan trí sĩ hoặc khoa mục chức sắc, nếu không thì người kỳ cựu lớn tuổi nhất trong làng" (tr.127). Có đúng vậy không? Sở dĩ "Một mình một chiếu" là do thằng mõ chỉ được ăn đồ thừa canh cặn trong dịp hội hè đình đám, ngồi riêng một xó, chớ hòng bén mảng tới chỗ dân làng. Đàn ông con trai làm nghề này dẫu có tên riêng nhưng thiên hạ không gọi, chỉ gọi "thằng mõ", vợ thì gọi "con mẹ đốp", xem như tên riêng.

Trong kho tàng các ông trạng Việt Nam, ở thế kỷ XVIII có nhân vật là Khiếu Hữu Thanh. Vốn là con nhà suốt đời làm nghề mõ trong làng nên không ai cần biết cha mẹ của cậu tên gì, và khi sinh ra thì cậu được đặt tên gì nữa! Mọi người trong làng gọi Khiếu Hữu Thanh. Thật ra, "khiếu" có nghĩa là "kêu, gọi", "hữu thanh" là "tiếng"- như vậy tên họ này ám chỉ nghề làm mõ của cậu mà thôi. Chính vì lẽ này, chúng ta khó xác định về thông tin hư thực của ông trạng này. Cũng có thể câu chuyện này, là cách "phản ứng" lại về đánh giá, quan niệm, suy nghĩ của người đương thời về thân phận "vi tiện" của họ. Tương truyền đương thời có người làm thơ khen:

Họ Khiếu vang trời tiếng mõ kêu,

Tre già măng mọc phất cao nêu.

Trời dành phúc tổ phần con cháu,

Bào hốt trâm anh trải mấy triều.

Lại nữa, thí dụ, đọc lại phóng sự về nông thôn miền Bắc của nhà văn Ngô Tất Tố, ta thấy có nhân vật "Mới/ thằng Mới": "Hàng xóm đã đến đông đủ! Thằng Mới đem làm cỗ đi!". Thằng Mới là thằng nào? Xin thưa, chính là cách gọi khác về… thằng Mõ. Vậy, cái thằng Mõ/ thằng Mới này, liệu có phải thằng Cam mà nhà thơ Nguyễn Gia Thiều đã sai bảo?

Cam, tốc ra thăm gốc hải đường,

Hái hoa về để kết làm tràng.

Những cành với nhánh đừng vin nặng,

Mấy đóa còn xanh chớ bẻ quàng

Thằng Cam này không phải thằng Mới/ thằng Mõ mà nó chính là cái thằng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: "Nó bảo từ thuở bé, nó vẫn tên là thằng Quít. Cái tên xấu xí ấy, nhiều lần ông Dự muốn đổi, để gọi cho đỡ có vẻ giai cấp. Vì ông khoe rất yêu chủ nghĩa bình dân. Nhưng đến tám tháng nay, có lẽ ông chưa có thì giờ nghĩ, nên tên nó vẫn cứ nguyên văn là thằng Quít".

Nếu "thằng Mới" cách gọi khác nhằm chỉ "thằng Mõ" thì "thằng Quýt" chính là… "thằng Cam". “Việt Nam tự điển” (1931) giải thích: "Cam: Nghĩa nữa là tên thông dụng để gọi những đứa ở trai"; đứa ở này, chính là… thằng Quýt, đó là cái thằng mà nhà văn Nguyễn Công Hoan nêu rõ trong mạch văn trên: "Ông nuôi một thằng đầy tớ rất nhanh nhẩu, khỏe mạnh". Cơn cớ tại làm sao người ta sử dụng từ cam/ thằng Cam, quýt/ thằng Quýt để chỉ ôsin, đày tớ, người ở, nô bộc? "Do điển Lý Xung trồng ở đất Long Dương một nghìn gốc quýt và bảo con trai rằng: "Ta đã có một nghìn cây quýt làm đầy tớ cho ta, sau này không bắt con phải lo cơm áo cho ta". Thơ Trần Thánh Tông ở nước ta có câu: "Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu": Nghìn hàng đầy tớ, nghìn cây quýt" (Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Văn Học-1983, tr. 92).

Dù tích là thế, cho dẫu có là quýt đi nữa nhưng người ta còn gọi là cam bởi với người Việt thì chúng cùng một phe, một guộc, một phường: "Quýt làm cam chịu", "Chê cam sành gặp quýt hôi", có gọi thằng Cam thì cũng chính là thằng Quýt và ngược lại. Không những thế, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn viết:

Ngàn hàng cam quýt, con đòi cũ,

Mấy đứa ngư tiều, bầu bạn thân.

"Con đòi" là đứa ở gái. Ngày trước có cửa miệng "Con đòi đứa ở", chẳng rõ vì sao trải theo năm tháng, ít ai sử dụng từ "con đòi" nữa. Qua các dẫn chứng này, ta thấy có những từ danh từ chung nhưng lại trở thành tên riêng nhằm chỉ về thân phận của một hạng người trong xã hội, chứ không phải đó là cái tên do cha sinh mẹ đẻ đặt cho, có đăng ký trong sổ bộ hành chánh nhà nước. Một khi nhìn về cấu trúc xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, dám nghĩ rằng, có những hạng người chúng ta có thể quên, không nhắc đến, thôi thì có gì "bổ sung sau" nhưng không thể thiếu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của nông thôn Việt thuở ấy: thẳng mõ. Khi tìm hiểu về sự "lạ lùng" của cách đặt tên theo lối này, ta còn nhận ra dấu vết văn hóa một thời của người Việt xưa.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/nguoi-trong-cuoc/thang-mo-moi-ngu-cu-cam-quyt-i786010/