Thanh âm của núi rừng
Các dân tộc thiểu số ở Quảng Ngãi sở hữu nhiều loại nhạc cụ độc đáo, được chế tác từ tre, nứa, lồ ô... Từ nền tảng nhạc cụ truyền thống, các nghệ nhân không ngừng sáng tạo thêm những nhạc cụ mới, góp phần làm phong phú kho tàng nhạc cụ dân gian nơi vùng cao.
Say mê nhạc cụ truyền thống
Trong ngôi nhà sàn gần nhà rông ở làng Chốt, xã Sa Thầy, nghệ nhân ưu tú A Huynh (46 tuổi) và nghệ nhân ưu tú A Juil (47 tuổi) vừa hàn huyên, uống rượu cần, vừa gảy đàn t’rưng, đàn k’ni. Với nghệ nhân A Huynh, A Juil, cũng như đồng bào dân tộc Gia Rai, nhạc cụ dân tộc giữ vai trò quan trọng trong lao động, sản xuất và tín ngưỡng dân gian. Người dân tộc Gia Rai ở làng Chốt sở hữu kho tàng âm nhạc phong phú.
Ngoài trống, cồng, chiêng, đồng bào nơi đây còn sáng tạo các nhạc cụ làm từ tre, lồ ô như đàn t’rưng, k’ni, tinh ning, đinh pút. Nếu trống, cồng, chiêng gắn với lễ hội cộng đồng, thì những nhạc cụ mộc mạc này lại hiện diện trong đời sống thường ngày của mỗi gia đình ở làng Chốt.
Ông A Huynh nhớ lại, từ nhỏ tôi đã thấy đàn t’rưng trong chòi rẫy. Đàn làm bằng lồ ô, dây mây hoặc vỏ cây rừng. Đàn có hình thang, ống dài cho âm trầm đặt xa, ống ngắn cho âm cao đặt gần người gảy. Đồng bào dân tộc Gia Rai còn tạo ra đàn t’rưng nước, vận hành nhờ dòng suối chảy, vừa tạo âm thanh vừa xua đuổi thú rừng, chim, chuột phá hoại mùa màng.
Đàn k’ni và đàn tinh ning cũng chế tác từ tre, lồ ô nhưng mỗi loại mang nét riêng. Dây đàn k’ni làm từ thân lồ ô được tách thành sợi, còn đàn tinh ning dùng quả bầu khô làm hộp cộng hưởng âm thanh.

Nghệ nhân ưu tú Đinh Thanh Sơn (giữa), ở thôn Nước Min, xã Sơn Tây Thượng (giữa biết chế tác và chơi đàn A Khung. Ảnh: KIM NGÂN
Để nhạc cụ phát ra âm thanh chuẩn và vang, vật liệu làm nên nhạc cụ phải được ngâm bùn rồi phơi trên gác bếp hoặc dưới sàn trong nhiều tháng để khô đều, không bị nứt. Người chế tác đàn phải hiểu lịch sử, ý nghĩa nhạc cụ, có khả năng cảm âm và có tình yêu sâu đậm với âm nhạc dân tộc.
Nghệ nhân A Juil cho biết, người Gia Rai thường gảy đàn t’rưng, k’ni, tinh ning trong bữa cơm chiều, vừa ăn cơm, uống rượu, vừa đàn hát dân ca. Đôi khi tiếng đàn còn báo hiệu cho hàng xóm biết đêm nay gia đình sẽ ngủ lại rẫy.
Trong các nhạc cụ từ tre, lồ ô, đàn k’ni là khó diễn tấu nhất. Người chơi vừa kéo dây đàn, vừa ngậm, há miệng để cộng hưởng, điều chỉnh âm thanh. Dù xã hội phát triển, nhạc cụ hiện đại phổ biến trong các sự kiện quan trọng, nhưng nhiều gia đình ở làng Chốt vẫn lưu giữ và sử dụng nhạc cụ truyền thống của dân tộc, nhất là các nhạc cụ làm từ tre và lồ ô.
“Hiện nay, ở làng Chốt chỉ còn tôi và nghệ nhân A Juil biết chế tác nhạc cụ. Trong làng còn 8 người sử dụng thành thạo đàn t’rưng, k’ni, tinh ning. Vừa qua, tôi vinh dự được biểu diễn tại khu trưng bày “Quảng Ngãi - Cội nguồn cách mạng, vững bước tương lai” ở Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia (Hà Nội) nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Du khách rất ấn tượng, đặc biệt thích thú với cây đàn tinh ning và đàn k’ni của người Gia Rai chúng tôi”, nghệ nhân A Huynh tự hào nói.
Giai điệu sâu lắng
Dành tình yêu cho âm nhạc truyền thống của đồng bào dân tộc Ca Dong, nghệ nhân ưu tú Đinh Thanh Sơn (55 tuổi), ở thôn Nước Min, xã Sơn Tây Thượng đã chế tác nhiều nhạc cụ dân gian từ tre, nứa. Ông Sơn chia sẻ, trong kho tàng nhạc cụ dân gian của người dân tộc Ca Dong, đa số làm từ tre, nứa như đàn b'rook, đàn vrook, sáo ta lía... Đáng chú ý nhất là đàn vung vút a khung, có 2 loại.
Loại thứ nhất gồm 5 - 7 ống nứa, sắp xếp từ ngắn đến dài, mỗi ống tạo ra một âm thanh với cao độ và sắc thái riêng. Khi diễn tấu, nghệ nhân chỉ cần vỗ tay lên mặt ống để phát ra âm thanh cuốn hút. Loại thứ hai có đến 14 ống nứa, khi chơi, nghệ nhân dùng miếng nhựa vỗ lên từng ống tạo nên giai điệu rộn ràng.
Cùng với đàn vung vút a khung, người Ca Dong còn sáng tạo loại đàn a khung bằng tre cũng rất độc đáo. “Đàn a khung hiện nay rất ít người biết chế tác. Tôi thường làm đàn gồm 10 ống nứa và mang biểu diễn tại nhiều hội thi, hội diễn văn hóa - văn nghệ của địa phương, qua đó giới thiệu cho thế hệ trẻ biết và yêu nhạc cụ truyền thống của đồng bào dân tộc Ca Dong”, ông Sơn cho hay.

Nghệ nhân ưu tú A Juil (bên trái) và nghệ nhân ưu tú A Huynh biết chế tác và am hiểm các nhạc cụ làm bằng tre, lồ ô của người dân tộc Gia Rai. Ảnh: Đ.THÀNH
Về cơ bản, đàn a khung khá giống với đàn t’rưng, nhưng số lượng ống nứa thường ít hơn (khoảng 9 - 12 ống). Các ống nứa khô được kết lại bằng dây rừng hoặc dây mây, sắp xếp từ dài (âm trầm) đến ngắn (âm cao). Khi diễn tấu, nghệ nhân dùng que gỗ hoặc tre gõ lên mặt ống, tạo nên những thanh âm khi thì rộn ràng như suối chảy, chim hót vang vọng núi rừng, khi lại mộc mạc, sâu lắng.
Đàn a khung không chỉ là nhạc cụ giải trí, mà còn là phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng và các lễ hội truyền thống của người dân tộc Ca Dong. Âm nhạc của đàn thường hòa quyện cùng cồng chiêng, tạo nên bản hòa tấu độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa địa phương.
Không chỉ người dân tộc Ca Dong, đồng bào dân tộc Hrê cũng rất sáng tạo trong việc chế tác nhạc cụ từ tre, nứa. Trong đó, có một số nhạc cụ độc đáo như đàn vinh-vút và chiêng tre. Đàn vinh-vút được xem là nhạc cụ truyền thống dành riêng cho phụ nữ Hrê.
Dù đơn giản, chỉ làm từ hai ống lồ ô, nhưng tiếng đàn vinh-vút có âm điệu trầm bổng, mang đậm tâm hồn bay bổng, tinh tế của người phụ nữ. Chị Đinh Thị Ro (49 tuổi), ở thôn Làng Giữa, xã Minh Long, từ nhỏ đã được bà ngoại truyền dạy cách làm và chơi đàn vinh-vút. Mỗi dịp lễ hội truyền thống hay hội diễn văn hóa ở địa phương, chị Ro cùng các chị em trong làng đều chơi đàn vinh-vút.
“Để cây đàn có âm thanh hay, phải chọn ống lồ ô già, phơi khô và thử âm nhiều lần. Chỉ cần cắt thừa hoặc thiếu một chút, âm thanh sẽ bị chênh, phô”, chị Ro chia sẻ. Cách biểu diễn đàn cũng rất đặc trưng, người chơi ngồi quỳ gối, cần ba người phối hợp. Một người giữ đầu gốc, một người giữ đầu ngọn, còn một người vỗ nhịp vào ống. Đàn có đến 7 bài (điệu) cơ bản, thể hiện sự tài hoa của đôi bàn tay khéo léo và nhịp điệu tinh tế.
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/thanh-am-cua-nui-rung-58316.htm