Thấy gì từ việc lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc lần đầu thấp hơn Nhật Bản?
Đây là lần đầu tiên diễn biến này được ghi nhận kể từ khi chuỗi số liệu bắt đầu được theo dõi vào tháng 9/2000...

Người tiêu dùng Trung Quốc đang có xu hướng chờ giảm giá mới mua hàng - Ảnh: Reuters
Gần đây, lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc kỳ hạn dài lần đầu tiên giảm xuống dưới mức của Nhật Bản, lùi về về vùng đáy lịch sử do áp lực giảm phát kéo dài và kỳ vọng chính sách tiền tệ tiếp tục được nới lỏng, trong bối cảnh lo ngại về rủi ro đối với kinh tế toàn cầu gia tăng.
Theo dữ liệu của Tập đoàn Sở Giao dịch Chứng khoán London (LSEG), lợi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm có lúc vượt 1,84% vào cuối tuần trước, cao hơn mức khoảng 1,83% của trái phiếu chính phủ Trung Quốc cùng kỳ hạn.
Đây là lần đầu tiên sự chênh lệch theo chiều hướng này này được ghi nhận kể từ khi chuỗi số liệu bắt đầu được theo dõi vào tháng 9/2000 và xu hướng tương tự cũng xuất hiện ở các kỳ hạn 20 năm và 30 năm.
Diễn biến trên cho thấy hai nền kinh tế lớn nhất châu Á đang đi theo hai quỹ đạo khác nhau.
Tại Nhật Bản, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng ổn định khoảng 3%, thậm chí cao hơn mặt bằng châu Âu. Ngược lại, Trung Quốc đang đối mặt với nguy cơ giảm phát tương tự giai đoạn từng kéo dài nhiều năm ở Nhật Bản, khi tăng trưởng CPI gần như bằng 0. Trong 10 tháng đầu năm nay, Trung Quốc ghi nhận tới 6 tháng chỉ số này giảm so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cao thường gây áp lực bán lên thị trường trái phiếu, trong khi giảm phát lại khuyến khích nhà đầu tư tăng mua. Vì vậy, lợi suất trái phiếu dài hạn phản ánh tổng hòa kỳ vọng về tăng trưởng, xu hướng lạm phát và sức khỏe tài khóa của một nền kinh tế.
Đến nay, nền kinh tế Trung Quốc vẫn đang chật vật phục hồi sau cú sốc khủng hoảng bất động sản và hệ lụy kéo dài từ chính sách phòng chống dịch Zero-Covid nghiêm ngặt trước đây.
Tháng 7 vừa qua, lần đầu tiên sau 20 năm, lượng vốn cho vay mới của hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã thấp hơn số tiền khách hàng trả nợ. Theo các nhà phân tích, diễn biến này là một dạng “suy thoái bảng cân đối kế toán”, khi doanh nghiệp và hộ gia đình ưu tiên trả nợ, thu hẹp bảng cân đối thay vì vay thêm để đầu tư và chi tiêu.
Nhật Bản từng trải qua kiểu suy thoái này vào cuối thập niên 1990 và trong thập niên 2000 và nền kinh tế phải mất nhiều năm mới thích nghi được.
Tháng 5/2025, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ với việc hạ lãi suất repo ngược kỳ hạn 7 ngày từ 1,5% xuống 1,4%. Kỳ vọng PBOC tiếp tục duy trì lập trường nới lỏng đang tạo sức ép kéo lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc kỳ hạn dài đi xuống, dao động quanh 1,5 - 1,9% từ đầu năm đến nay.
Công ty tư vấn kinh tế Capital Economics dự báo PBOC sẽ giảm lãi suất chính sách thêm khoảng 0,3 điểm phần trăm từ nay tới cuối năm 2026.
Vào tháng 9/2000, lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc kỳ hạn dài dao động quanh mức 2,8%. Đến tháng 7/2007, con số này đã vượt 5% trong bối cảnh GDP thực của Trung Quốc tăng 14% trước thềm Thế vận hội Bắc Kinh. Đến năm 2010, GDP danh nghĩa của Trung Quốc vượt Nhật Bản, đưa nước này trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Đây cũng là năm cuối cùng tăng trưởng GDP thực của Trung Quốc ở mức trên 10%.
Sau đó, Bắc Kinh từng bước hạ mục tiêu tăng trưởng, từ khoảng 7,5% trong giai đoạn 2012-2014 xuống quanh 5% như hiện nay. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo nền kinh tế nước này tăng trưởng 4,8% trong năm nay và khoảng 4,2% năm 2026.
Câu hỏi lớn nhất với các nhà đầu tư lúc này là liệu Trung Quốc có thể tránh rơi vào vòng xoáy giảm phát bằng các biện pháp đủ mạnh để kích thích nhu cầu nội địa hay không.
“Hiện Bắc Kinh vẫn chưa có giải pháp thực sự đột phá để xử lý vấn đề nhu cầu nội địa yếu”, ông Naoki Tsukioka, nhà kinh tế trưởng tại công ty Mizuho Research & Technologies, nhận định với tờ Nikkei Asia.
Trong tháng 10, chỉ số giá sản xuất (PPI) của Trung Quốc giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, đánh dấu tháng giảm thứ 37 liên tiếp. Trong bối cảnh tiêu dùng suy yếu, cạnh tranh giá giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt và người tiêu dùng có xu hướng chờ hàng giảm giá mới mua.
Theo giới phân tích, nếu xu hướng này kéo dài, nguy cơ Trung Quốc rơi vào vòng xoáy giảm phát sẽ ngày càng lớn. Và nếu Bắc Kinh không duy trì được đà tăng trưởng cầu nội địa, thế giới cũng có thể chịu hệ quả khi lượng hàng dư thừa từ Trung Quốc tràn vào các nước khác với mức giá thấp. Lo ngại về sức ép cạnh tranh của hàng Trung Quốc đối với ngành sản xuất trong nước đang tăng lên không chỉ tại Mỹ và châu Âu, mà còn ở nhiều nền kinh tế mới nổi.














