'Thầy Tiễn' - Người thầy làng và người cha mẫu mực
Cha tôi - thầy giáo làng, người mà bà con quê tôi ở thị trấn Nghèn vẫn thân thương gọi bằng cái tên trìu mến: 'Thầy Tiễn'. Hầu như thế hệ học trò nào ở làng cũng biết, cũng nhớ đến thầy – một người thầy giản dị, giàu lòng nhân ái, có tài, có tâm và sống trọn nghĩa tình.
Nói đến thầy Tiễn, cả ngành giáo dục huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đều biết đến ông như một tấm gương mẫu mực. Ông là người hiền hậu, sống chan hòa, giàu lòng vị tha và đặc biệt có nhiều năng khiếu: từ văn hóa, văn nghệ cho đến thể dục thể thao. Hồi tôi mới lên sáu, lần đầu tiên thấy cha hát song ca bài “Trước ngày hội bắn” cùng cô Hà - học trò cưng của ông - trên sân khấu trường, cả trường vỗ tay rần rần, khen cặp đôi “trai tài gái sắc”.

Thầy giáo Trần Văn Tiễn (người mặc áo trắng ngồi bên trái)
Cha tôi hồi trẻ trông rất tuấn tú: da trắng, sống mũi cao, đôi mắt tròn đen ánh lên nét thông minh, mái tóc xoăn nhẹ và vóc dáng thư sinh. Tuy chiều cao khiêm tốn, nhưng dáng vẻ của ông lại gây thiện cảm, khiến nhiều cô gái thời ấy “yêu thầm nhớ trộm”. Mẹ tôi kể, thời chống Pháp, khi đi khám tuyển vào lực lượng thanh niên xung phong, cha phải cho mấy viên đá vào túi quần mới đủ cân nặng để được nhận. Có người bảo cha tôi “đào hoa”, thời đi dạy có nhiều em "xin chết". Tiếng lành đồn xa, nên mẹ tôi cũng có lúc chạnh lòng. Nhưng thực ra, cha tôi rất chừng mực - phần vì tự trọng, phần vì thương mẹ tôi hay ghen. Ông luôn giữ mình, sống đạo đức và khuôn phép.
Cha tôi có nét chữ rất đẹp, vừa nhanh vừa chuẩn, cả chữ in lẫn chữ thường đều mềm mại, sắc nét. Có thể do được đào tạo bài bản ngành sư phạm, cũng có thể là năng khiếu bẩm sinh. Sau này con cháu không ai viết được như ông. Ông cũng là người mê âm nhạc, đặc biệt đánh đàn mandolin và thổi sáo rất hay. Nghe kể, ông học những nhạc cụ này từ thời còn công tác trong lực lượng thanh niên xung phong ở Trung Lào và Tây Bắc. Sau này khi học sư phạm và trở thành thầy giáo, tài nghệ ấy càng được phát huy trong những dịp sinh hoạt tập thể.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, cha tôi tiếp tục ở lại Tây Bắc làm công tác cầu đường phục vụ dân sinh. Đến đầu năm 1957, ông được chuyển ngành về học tại trường sư phạm và chính thức trở thành “ông giáo làng”. Năm 1968, giữa lúc Mỹ tăng cường ném bom miền Bắc ác liệt, cha tôi được phân công làm công tác bổ túc văn hóa cho huyện. Dưới làn bom đạn, ông nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Một số đồng nghiệp của cha đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ, nỗi đau đó cha tôi không bao giờ quên.
Đầu những năm 1970, cha được điều động về Phòng Giáo dục huyện Can Lộc, phụ trách tổ chức cán bộ. Trong công việc, ông luôn cẩn trọng, công tâm, giải quyết mọi việc “thấu tình, đạt lý”, luôn quan tâm đến đồng nghiệp. Với nhiều thành tích nổi bật, cha được bổ nhiệm làm Phó Trưởng phòng Giáo dục kiêm Chủ tịch Công đoàn. Dù ở vị trí nào, ông cũng sống chan hòa, nghĩa tình, được đồng nghiệp kính trọng. Ông nội tôi từng dặn: “Con làm cán bộ là phải lo cho dân, không được tơ hào. Vì lợi ích cá nhân thì không nên làm cán bộ.” Cha tôi suốt đời ghi nhớ lời dạy đó.
Cha tôi tài hoa là thế, nhưng trong chuyện sinh hoạt hằng ngày lại khá vụng về. Đến nay, làng tôi vẫn còn nhắc lại nhiều giai thoại vui về ông. Như hồi sơ tán năm 1968 ở làng Hồng Vinh, mọi gia đình đều phải làm hầm chữ A lợp rạ. Cha tôi loay hoay lợp mái từ trên xuống dưới, khiến tôi phải thắc mắc. Đến khi nhận ra mình làm ngược, ông chỉ cười ngượng. Hay có lần mẹ tôi bận việc, nhờ ông đi chợ mua lợn giống, về nhà khoe: “Mua được con lợn đẹp lắm!” Mẹ tôi hỏi: “Lợn đực hay cái?”, ông đáp tỉnh bơ: “Tôi có kịp xem đâu!”. Những câu chuyện ấy khiến ai cũng nhớ mãi và yêu quý sự hồn hậu của ông.
Nhưng điều khiến tôi cảm phục nhất chính là tình yêu thủy chung son sắt giữa cha và mẹ. Dù đã ở tuổi “gần đất xa trời”, hai cụ vẫn quấn quýt không rời. Đi đâu, du lịch hay thăm con cháu từ Bắc vào Nam, luôn có nhau. Khi mẹ đau yếu, cha chăm sóc từng li từng tí: từ bón cơm, giặt giũ đến vệ sinh cá nhân - không cho con cái đụng vào việc gì. Đến khi mẹ mất, cha đau đớn tột cùng, nhiều tháng sau mới dần lấy lại được cân bằng. Có lúc, tôi thấy ông lặng lẽ ngồi một mình, nước mắt rơi vì nhớ bà…
Cuối năm 1990, cha tôi nghỉ hưu nhưng vẫn tích cực tham gia công tác xã hội: làm Chủ tịch Hội Người cao tuổi thôn, Chủ tịch Hội Giáo chức thị trấn. Ông tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, lễ hội vui tươi trong những ngày Tết. Khi tuổi cao sức yếu, ông lui về nghỉ ngơi nhưng vẫn vận động con cháu góp sách lập tủ sách cho xóm. Mỗi ngày, nhiều người đến đọc sách, trò chuyện cùng ông về thời cuộc. Trong gia đình, ông là người cha mẫu mực. Năm người con của ông – ba trai, hai gái – đều đỗ đại học, đứng trong hàng ngũ Đảng, công tác trong các cơ quan nhà nước. Ông luôn dạy con cháu: “Sống ở đời phải có lòng nhân hậu, biết đùm bọc, yêu thương, không ích kỷ, không vụ lợi.”
Thế rồi, một ngày hè năm 2020, trong cái nắng trên 40 độ, cha tôi bị tai biến và phải cấp cứu tại bệnh viện tỉnh. Suốt 12 ngày đêm chiến đấu với bệnh tật, bạn bè, đồng nghiệp, học trò cũ đến thăm ông rất đông. Nhân viên y tế phải vất vả giữ trật tự. Khi bệnh viện trả về, ông chỉ ở nhà được một đêm rồi trút hơi thở cuối cùng. Ngày đưa tang ông, trời đang nóng gắt bỗng trở nên mát mẻ, dịu dàng như chưa từng có cái nắng cháy miền Trung. Mưa rào nhẹ đổ xuống khi ông vừa an táng xong. Mọi người bảo: “Ông ở hiền gặp lành, trời cũng thương mà tiễn ông về cõi vĩnh hằng.”
Cha tôi - một cuộc đời giản dị, thanh cao - đã ra đi để lại khoảng trống lớn trong lòng gia đình và bà con làng xóm. Gần hai năm đã trôi qua kể từ ngày ông mất, tôi ngồi viết những dòng này như một nén tâm nhang tưởng nhớ công ơn trời biển của cha - người thầy, người cha, người đồng chí.
Cha tôi - người được Đảng và Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương cao quý: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, danh hiệu Chiến sĩ Thi đua cấp huyện, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Giáo dục. Ông là một thương binh thời kháng Pháp, một Đảng viên 55 năm tuổi Đảng, một nhà giáo mẫu mực đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp “trồng người”. Dù ông đã đi xa, nhưng hình ảnh và nhân cách của ông sẽ mãi mãi sống trong lòng con cháu và bao thế hệ học trò. Ông là ánh sáng dẫn đường, là ngọn lửa ấm nồng của gia đình - một người thầy làng đáng kính mang tên: Thầy Tiễn.
Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/thay-tien-nguoi-thay-lang-va-nguoi-cha-mau-muc-a28996.html