Thay tư duy quản lý kiểm soát bằng tư duy hỗ trợ doanh nghiệp
Cải cách thủ tục hành chính phải đi vào cái gốc: Cắt giảm triệt để các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, thông thoáng và thực chất cho doanh nghiệp Việt Nam.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết phê duyệt chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 và 2026.
Mục tiêu của chương trình là năm 2026, cắt giảm, đơn giản hóa 100% điều kiện kinh doanh không cần thiết, chồng chéo. Cùng với đó, bãi bỏ 100% điều kiện đầu tư kinh doanh của các ngành nghề không thuộc danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng tiếp tục yêu cầu các bộ, ngành không tạo giấy phép con, gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp (DN) và người dân.

Liên quan vấn đề này, báo Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trò chuyện với ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) (ảnh), về những giải pháp nhằm cụ thể hóa mục tiêu trên.
Hơn 3.200 quy định về kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa
. Phóng viên: Thưa ông, chủ trương cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và điều kiện kinh doanh đã được Chính phủ và các bộ, ngành thực hiện quyết liệt một thời gian. Vậy ông đánh giá thế nào về kết quả thực thi chủ trương này?
+ Ông Đậu Anh Tuấn: Trước hết, tôi đánh giá cao nỗ lực và cam kết chính trị mạnh mẽ từ Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc cải cách TTHC, cắt giảm và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh trong những năm gần đây. Đây là một trong những chủ trương lớn, xuyên suốt và ngày càng được triển khai sâu rộng nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo báo cáo mới nhất của Chính phủ, trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 đang diễn ra, tính đến hết tháng 9-2025, đã có 3.241 quy định kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa, đạt tỉ lệ 20,5% trên tổng số quy định được rà soát. Ngoài ra, 1.033 TTHC và giấy tờ công dân cũng đã được cắt giảm, đơn giản hóa.
Đặc biệt, việc phân cấp 490 TTHC và phân định rõ thẩm quyền thực hiện với 748 TTHC cho cấp tỉnh, 268 TTHC cho cấp xã là bước tiến rất đáng ghi nhận theo hướng giảm tải cho trung ương, tăng tính tự chủ, linh hoạt ở địa phương.
Một điểm đáng chú ý nữa là kết quả này không chỉ thể hiện trên số lượng, mà còn mang ý nghĩa về chất lượng cải cách. Việc từng bước xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, tiết giảm chi phí tuân thủ cho người dân và DN đã góp phần cải thiện đáng kể trải nghiệm thực tiễn của DN trong quá trình thực hiện TTHC.
Hiện nay, nhiều nơi doanh nghiệp vẫn phải nộp bản giấy song song với bản điện tử hoặc kê khai thông tin lặp đi lặp lại, trong khi lẽ ra có thể chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống để giảm thiểu thao tác.
. Từ đánh giá của ông có thể thấy hiệu quả thực thi đã có những kết quả đáng kể nhưng xin ông cho biết những vấn đề cụ thể liên quan đến TTHC và điều kiện kinh doanh mà nhà kinh doanh vẫn còn gặp vướng mắc?
+ Dù có những cải cách rất đáng ghi nhận trong thời gian qua nhưng thực tế từ phản ánh của cộng đồng DN cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, tồn tại cụ thể trong quá trình thực thi TTHC và điều kiện kinh doanh.
Thứ nhất, một số điều kiện kinh doanh vẫn còn hình thức, không rõ ràng, không lượng hóa được. Nhiều quy định vẫn dùng những khái niệm chung chung như “phù hợp”, “đầy đủ”, “đảm bảo”, “có năng lực”,... khiến DN khó xác định được tiêu chí cụ thể để đáp ứng. Từ đó có thể tạo ra khoảng trống cho cơ quan thực thi diễn giải tùy nghi, dẫn đến rủi ro nhũng nhiễu, tiêu cực.
Thứ hai, tình trạng văn bản dưới luật như nghị định, thông tư quy định thêm và khác về điều kiện kinh doanh vẫn còn xảy ra. Chẳng hạn như trong luật khuyến khích một số điều kiện nhưng nghị định lại thiết kế bắt buộc phải thực hiện. Đây là vấn đề đã được nhắc đến nhiều lần trong các báo cáo của VCCI và cũng là điểm nghẽn lớn trong cải cách thể chế. Theo quy định của Luật Đầu tư, điều kiện kinh doanh chỉ được phép quy định ở luật, nghị định cấp Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những văn bản như thông tư hướng dẫn... đưa thêm yêu cầu, điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật gây khó cho DN.

Để đạt mục tiêu cắt giảm 100% các thủ tục hành chính, cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp. Ảnh: QUANG HUY
Thứ ba, TTHC liên ngành còn rườm rà, nhiều bước trung gian, chồng chéo giữa các cơ quan. Ví dụ, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, môi trường, PCCC hoặc an toàn thực phẩm, DN thường phải làm việc với nhiều cơ quan khác nhau, cung cấp nhiều bộ hồ sơ trùng lặp. Việc chia cắt quy trình hành chính thành nhiều bước, nhiều đầu mối quản lý khiến chi phí tuân thủ của DN bị đội lên cao.
Thứ tư, cơ chế thực thi ở địa phương có sự khác biệt lớn, đặc biệt giữa các địa phương năng động và các địa phương chậm cải cách. Cùng một quy định nhưng cách hiểu, cách áp dụng và thời gian xử lý hồ sơ có thể khác nhau rất nhiều ở từng nơi, khiến DN gặp khó trong việc mở rộng đầu tư hoặc triển khai dự án liên tỉnh.
Thứ năm, việc số hóa TTHC tuy có tiến bộ nhưng chưa đồng bộ, chưa liên thông thực sự giữa các cơ quan và cấp hành chính. Hiện nay, nhiều nơi DN vẫn phải nộp bản giấy song song với bản điện tử hoặc kê khai thông tin lặp đi lặp lại, trong khi lẽ ra có thể chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống để giảm thiểu thao tác.
Cuối cùng, tâm lý “sợ trách nhiệm” ở một số cán bộ thực thi khiến quy trình bị kéo dài hoặc yêu cầu thêm hồ sơ ngoài quy định. Điều này xuất phát từ việc chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng thời cũng chưa có cơ chế xử lý nghiêm những trường hợp gây khó, gây phiền hà cho DN.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình
. Như ông phân tích thì các khó khăn mà DN đang gặp phải không chỉ đến từ quy định pháp luật, mà còn đến từ khâu thực thi, từ nhận thức của cán bộ thực thi?
+ Đúng vậy. Có thể thấy các khó khăn mà DN đang gặp phải không chỉ đến từ quy định pháp luật mà còn đến từ khâu thực thi, từ nhận thức, cách làm và cả động lực cải cách của từng cơ quan, từng cấp chính quyền. Đây chính là khoảng trống mà chúng ta cần tập trung xử lý trong thời gian tới nếu muốn đạt mục tiêu cải cách toàn diện đến năm 2026.
Đáng chú ý, các vướng mắc của DN không chỉ là vấn đề kỹ thuật hành chính, mà phản ánh một hệ sinh thái quản trị công cần được cải tổ toàn diện - từ thiết kế chính sách, chất lượng quy định pháp luật đến tổ chức thực thi và đặc biệt là thay đổi tư duy, văn hóa phục vụ trong khu vực công. Nếu không giải quyết đồng bộ các nguyên nhân này thì dù có cắt giảm trên giấy tờ, DN vẫn sẽ gặp khó trong thực tế.
. Nguyên nhân đã được chỉ rõ, vậy xin ông cho biết Việt Nam cần những giải pháp cụ thể và mạnh mẽ nào để biến chủ trương cắt giảm, đơn giản hóa 100% TTHC và điều kiện kinh doanh không cần thiết vào năm 2026 thành hiện thực?
+ Để đạt được mục tiêu đầy tham vọng và rất đáng kỳ vọng là cắt giảm, đơn giản hóa 100% TTHC và điều kiện kinh doanh không cần thiết vào năm 2026, Việt Nam cần một cách tiếp cận tổng thể, thực chất và bền vững. Tôi cho rằng một số giải pháp cần được tập trung triển khai trong thời gian tới như:
Thứ nhất, rà soát toàn diện và định lượng hóa điều kiện kinh doanh, TTHC. Việc rà soát cần thực hiện một cách hệ thống, minh bạch, có sự tham gia độc lập của các tổ chức trung gian như VCCI, hiệp hội DN và chuyên gia độc lập, để đảm bảo tính khách quan. Cần thiết lập cơ chế rà soát thường xuyên và định kỳ, không chỉ là chiến dịch ngắn hạn. Việc này phải trở thành một phần trong quy trình lập pháp và quản lý nhà nước.
Thứ hai, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình. Việc phân cấp thủ tục cho địa phương như thời gian qua là hướng đi đúng nhưng cần đi kèm với cơ chế giám sát rõ ràng và trách nhiệm giải trình cụ thể. Cần có hệ thống đánh giá độc lập, minh bạch, đo lường mức độ cải cách của từng địa phương, bộ, ngành, từ đó gắn với xếp hạng, thi đua, khen thưởng hoặc xử lý trách nhiệm nếu không làm tốt. Đồng thời, cần đảm bảo tính thống nhất về cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các cấp, tránh việc phân cấp mà mỗi nơi làm một kiểu, gây khó khăn cho DN.
Kiến nghị bãi bỏ điều kiện kinh doanh với hơn 21 ngành nghề
Trình bày tờ trình dự án Luật Đầu tư (thay thế Luật Đầu tư hiện hành) mới đây, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết dự thảo luật dự kiến rà soát, cắt giảm 21 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đó là kinh doanh dịch vụ kế toán; kinh doanh làm thủ tục về thuế; xuất khẩu gạo; kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh; kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô…
Đại diện Bộ Tài chính cho rằng nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện hiện nay phần lớn vẫn áp dụng cơ chế tiền kiểm, nghĩa là phải xin cấp giấy phép mới được kinh doanh. Trong khi đó, nhiều ngành nghề có thể chuyển sang cơ chế hậu kiểm để hạn chế rào cản gia nhập thị trường của DN và thúc đẩy tự do kinh doanh.
Thứ ba, đẩy nhanh chuyển đổi số, xây dựng hệ thống thủ tục hành chính điện tử thực chất. Chuyển đổi số không chỉ là đưa thủ tục lên mạng, mà phải đảm bảo liên thông thực sự giữa các cơ quan, cấp hành chính và dữ liệu dùng chung. DN không nên phải nộp nhiều lần cùng một thông tin cho các cơ quan khác nhau.
Cần hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia (về dân cư, DN, đất đai...), kết nối với hệ thống của các cơ quan chuyên ngành, để thực hiện “một cửa - một lần” trong xử lý thủ tục. Đồng thời, rút ngắn thời gian xử lý, số hóa toàn bộ quy trình và công khai, minh bạch tình trạng hồ sơ để người dân, DN giám sát.
Thứ tư, thiết lập cơ chế giám sát độc lập và phản hồi từ DN. Một trong những yếu tố bảo đảm cải cách đi đúng hướng là phải có cơ chế phản biện độc lập từ cộng đồng DN và xã hội. Các tổ chức như VCCI, hiệp hội ngành nghề, các tổ chức nghiên cứu… phải được tạo điều kiện tham gia sâu vào quá trình xây dựng, rà soát chính sách.
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn để cải cách môi trường kinh doanh một cách thực chất hơn. Những kết quả bước đầu là rất tích cực nhưng để đạt mục tiêu cắt giảm 100% TTHC và điều kiện kinh doanh không cần thiết vào năm 2026 thì cần một quyết tâm chính trị mạnh mẽ, một cơ chế thực thi hiệu quả và đặc biệt là sự đồng hành của DN và người dân.
. Xin cảm ơn ông.•
Một số cán bộ thiếu tinh thần phục vụ
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI, cho rằng những vướng mắc mà DN đang gặp phải trong quá trình thực hiện TTHC và điều kiện kinh doanh xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chính: Thể chế pháp luật, tổ chức thực thi và văn hóa, tư duy quản lý.
Đơn cử vẫn tồn tại tình trạng “luật một đằng, hướng dẫn một nẻo” hoặc sự chồng chéo, xung đột giữa các luật với nhau. Ví dụ như giữa Luật Đầu tư với các luật chuyên ngành như Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Nhà ở…
Về tổ chức thực thi, đây là một trong những điểm yếu lớn nhất hiện nay. Trong nhiều trường hợp, quy định pháp luật đã có tiến bộ nhưng khâu thực thi tại địa phương lại không theo kịp hoặc không đồng bộ.
Về tư duy và văn hóa quản lý, ở một số nơi vẫn tồn tại tư duy quản lý theo hướng “kiểm soát” thay vì “hỗ trợ” DN. Điều này thể hiện qua cách xây dựng điều kiện kinh doanh quá chặt chẽ, TTHC phức tạp hoặc yêu cầu hồ sơ vượt mức cần thiết.
“Một số cán bộ thiếu tinh thần phục vụ, thậm chí còn gây phiền hà, nhũng nhiễu, tạo gánh nặng vô hình cho DN” - ông Tuấn nhấn mạnh.
Ý kiến chuyên gia
Tập trung giải quyết 2 vấn đề mấu chốt
Để giải quyết dứt điểm tình trạng DN “đụng đâu vướng đó” về TTHC, các DN và chuyên gia cho rằng cần giải quyết hai vấn đề cốt lõi: Minh bạch hóa hệ thống thủ tục và nâng cao năng lực, sự nhất quán trong thực thi công vụ.
Ông NGUYỄN ĐÌNH TÙNG, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vina T&T kiêm Phó Chủ tịch Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV):

Thuế giá trị gia tăng và câu chuyện hoàn thuế kéo dài
Đối với ngành hàng nông sản xuất khẩu, vướng mắc lớn nhất hiện nay không phải là giấy phép con,vấn đề thực tế đang gây lãng phí thời gian và nguồn lực của DN chính là thuế giá trị gia tăng (VAT) 5% và câu chuyện hoàn thuế kéo dài.
Việc duy trì chính sách thu 5% thuế VAT đối với hàng xuất khẩu rồi mới làm thủ tục hoàn lại đang tạo thêm một gánh nặng hành chính không cần thiết. DN phải tốn nhân lực chuyên để làm việc này, theo dõi hồ sơ chỉ để được nhận lại số tiền đáng lẽ họ không phải đóng.
Nghiêm trọng hơn, việc này khiến DN bị đọng vốn. Thay vì được xoay vòng vốn ngay, họ phải chờ sáu tháng, thậm chí một năm mới được hoàn thuế. Rõ ràng việc thu để rồi hoàn lại không mang nhiều ý nghĩa, nhất là khi hàng xuất khẩu đang mang ngoại tệ về cho đất nước.
Do đó, giải pháp hợp lý nhất là nên bãi bỏ luôn việc thu VAT 5% đối với hàng hóa xuất khẩu.
Trong trường hợp vẫn phải duy trì việc thu thuế này thì cần phải thay đổi cơ chế thực thi. Cần áp dụng biện pháp hoàn thuế ngay lập tức, tương tự như một số nước đang làm. Nghĩa là khi lô hàng đã đầy đủ thủ tục xuất đi, cơ quan chức năng cần xác định hồ sơ trước và hoàn tiền ngay cho DN, thay vì bắt họ phải chờ đợi quá lâu.
TS HUỲNH PHƯỚC NGHĨA, Giám đốc Trung tâm Kinh tế, luật và quản lý thuộc ĐH Kinh tế TP.HCM:

Minh bạch hệ thống, nhất quán thực thi
Chủ trương cắt giảm 100% điều kiện kinh doanh không cần thiết mang ý nghĩa như một cam kết chiến lược, một thông điệp mạnh mẽ về quản trị quốc gia. Tuy nhiên, để chỉ đạo này được hiện thực hóa, giải quyết dứt điểm tình trạng DN đụng đâu vướng đó, mấu chốt nằm ở việc giải quyết hai vấn đề cốt lõi: Minh bạch hóa hệ thống thủ tục và nâng cao năng lực, sự nhất quán trong thực thi công vụ.
Vướng mắc lớn nhất của DN hiện nay không chỉ là số lượng thủ tục mà là tính không rõ ràng của hệ thống. Hệ thống này bao gồm toàn bộ văn bản pháp lý, các yêu cầu, quy trình và các điều kiện mà DN phải chứng minh. Vấn đề là hiện nay, hệ thống này chưa hoàn toàn minh bạch. Có cái thì minh bạch, có cái thì không. Điều này dẫn đến việc DN lại phải xin thêm giấy tờ này, giấy tờ kia.
Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách trong giải quyết TTHC cũng là một vấn đề. Các cơ quan chấp thuận giải quyết ra sao? Các tiêu chí chi tiết như “thiếu cái này”, “chưa đủ ngày”, “cần chỉnh sửa”… thường không được quy định rõ ràng, dẫn đến sự tùy nghi trong áp dụng.
Chuyên gia tài chính - luật sư NGUYỄN ĐỨC NGHĨA:

Phải coi DN là đối tượng phục vụ
Chủ trương cắt giảm 100% điều kiện kinh doanh không cần thiết là hoàn toàn đúng đắn, được cộng đồng DN hoan nghênh. Tuy nhiên, nút thắt lớn nhất luôn nằm ở khâu thực thi. Thực tế là dù chủ trương ở cấp Trung ương rất quyết liệt nhưng khi triển khai xuống các sở, ngành hay cấp xã, phường, thủ tục vẫn trì trệ, DN vẫn phải chờ đợi rất lâu.
Dù đã có quy định rõ ràng về thời gian giải quyết nhưng tình trạng bị yêu cầu bổ sung “thứ này, thứ kia” vẫn phổ biến. Nguyên nhân của sự ách tắc này đến từ ba điểm nghẽn chính.
Con người: Năng lực và trình độ của một bộ phận cán bộ còn yếu kém, nhân lực thực thi chưa đủ.
Quy trình: Thủ tục còn bị chia cắt, thiếu liên thông. Một người muốn làm thủ tục phải kết nối, xin ý kiến của nhiều bộ phận, nhiều sở, ngành khác liên quan.
Công nghệ: Hệ thống phần mềm, thiết bị hỗ trợ còn thiếu ổn định, hay gặp trục trặc, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Để chủ trương đi vào thực tế, mấu chốt là phải thay đổi căn bản tư duy: Coi người dân và DN là đối tượng để phục vụ chứ không phải đối tượng để quản lý như quan niệm cũ.
Khi đã xác định là phục vụ, bộ máy phải tự vận hành để tìm giải pháp cho DN chứ không phải bắt DN chờ đợi.
Muốn giải quyết triệt để, cần thực hiện đồng bộ ba trụ cột.
Thứ nhất là pháp lý và quy trình: Phải xây dựng một quy trình chuẩn, thống nhất và liên thông.
Thứ hai là con người: Triển khai quy trình xuống dưới và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ để họ hiểu và nắm vững vấn đề. Cán bộ nào không đủ khả năng thực hiện thì kiên quyết điều chuyển, thay thế.
Thứ ba là công nghệ và dữ liệu: Hệ thống phần mềm phải ổn định. Quan trọng nhất, phải xây dựng được một trung tâm dữ liệu quốc gia. Các cơ quan quản lý phải lấy dữ liệu từ trung tâm đó, thay vì bắt người dân cầm hồ sơ chạy từ cơ quan này sang sở, ngành rồi lại về địa phương.
Cuối cùng, tất cả những điều trên sẽ vô nghĩa nếu thiếu giám sát và quy trách nhiệm.
QUANG HUY thực hiện











