Thêm một lựa chọn điều trị nhiễm trùng da do vi khuẩn

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận kimyrsa (oritavancin) để điều trị bệnh nhân người lớn bị nhiễm trùng da cấp tính và nhiễm trùng cấu trúc da (ABSSSI) gây ra bởi những chủng vi khuẩn nhạy cảm nhất định, bao gồm Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA).

Kimyrsa (oritavancin) là một loại kháng sinh lipoglycopeptide tác dụng kéo dài, dùng tiêm truyền trong vòng 1 giờ với liều duy nhất. Việc phê duyệt kimyrsa cung cấp một lựa chọn điều trị mới quan trọng cho các bác sĩ lâm sàng để điều trị bệnh nhân ABSSSI ở nhiều cơ sở chăm sóc mà không cần nhập viện; đặc biệt có lợi cho những bệnh nhân thiếu sự hỗ trợ hoặc nguồn lực để tuân thủ nhiều lần tiêm tĩnh mạch.

Vi khuẩn Staphylococcus aureus gây nhiễm trùng da.

Vi khuẩn Staphylococcus aureus gây nhiễm trùng da.

Để giảm sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc và duy trì hiệu quả của oritavancin và các thuốc kháng khuẩn khác, chỉ nên sử dụng oritavancin để điều trị hoặc ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng đã được chứng minh hoặc nghi ngờ mạnh là do vi khuẩn nhạy cảm gây ra.

Các phản ứng có hại thường gặp nhất ở những bệnh nhân được điều trị bằng oritavancin là nhức đầu, buồn nôn, nôn, áp xe chi và dưới da, tiêu chảy; quá mẫn, ngứa, ớn lạnh và sốt. Khi dùng thuốc cần thận trọng các nguy cơ sau:

Các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng bao gồm cả phản vệ, đã được báo cáo khi sử dụng các sản phẩm oritavancin. Ngừng truyền nếu có dấu hiệu quá mẫn cấp tính. Theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân đã biết quá mẫn với glycopeptide.

Các phản ứng liên quan đến truyền dịch: Các phản ứng truyền dịch đặc trưng bởi đau ngực, đau lưng, ớn lạnh và run rẩy đã được quan sát khi sử dụng các sản phẩm oritavancin, kể cả sau khi dùng nhiều hơn một liều oritavancin trong một đợt điều trị. Ngừng hoặc làm chậm quá trình truyền có thể dẫn đến ngừng các phản ứng này.

Tiêu chảy do Clostridium difficile: Đánh giá bệnh nhân nếu bị tiêu chảy.

Sử dụng đồng thời với thuốc chống đông warfarin: Oritavancin đã được chứng minh là có thể kéo dài PT và INR (các xét nghiệm máu đo thời gian đông máu) một cách giả tạo lên đến 12 giờ. Bệnh nhân cần được theo dõi chảy máu nếu dùng đồng thời các sản phẩm oritavancin và warfarin.

Viêm tủy xương: Nếu các nhận hoạc nghi ngờ viêm tủy xương cần thay thế liệu pháp kháng khuẩn thích hợp.

Đối với các trường hợp không có dấu hiệu nhiễm vi khuẩn đã được chứng minh hoặc nghi ngờ mạnh hoặc dùng dự phòng, thuốc sẽ không mang lại lợi ích cho người bệnh mà còn làm tăng nguy cơ phát triển vi khuẩn kháng thuốc.

Thanh Phúc

(Theo Drugs 3/2021)

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/them-mot-lua-chon-dieu-tri-nhiem-trung-da-do-vi-khuan-n188353.html