Thêm nhiều cơ chế, chính sách đặc thù nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế

Chiều 26-11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ mười, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế.

Các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường chiều 26-11. Ảnh: Quochoi.vn

Các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường chiều 26-11. Ảnh: Quochoi.vn

Quan tâm đến quy định cho phép thành lập văn phòng đại diện của UBND cấp tỉnh ở nước ngoài, đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương (Đoàn Quảng Ngãi) đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sự cần thiết của việc thành lập văn phòng này. Việc thành lập có thể làm phát sinh kinh phí ngân sách, bộ máy tổ chức, về chức năng có khả năng trùng lặp với nhiệm vụ của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài.

Nếu thực sự cần thiết phải có đại diện của UBND cấp tỉnh, có thể phối hợp với Bộ Ngoại giao xem xét điều động cán bộ của tỉnh làm việc tại các cơ quan đại diện ngoại giao hoặc nghiên cứu thí điểm mô hình trực tuyến, vừa đáp ứng yêu cầu mở rộng không gian đối ngoại, vừa không làm phát sinh tổ chức bộ máy.

Đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương (Đoàn Quảng Ngãi) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương (Đoàn Quảng Ngãi) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Trong khi đó, đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Lâm Đồng) nhất trí cao với nội dung hội nhập quốc tế của chính quyền địa phương được quy định tại Chương 4 của dự thảo Nghị quyết và cho rằng, cần tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương được quy định tại Điều 15, 16 và 17 của dự thảo Nghị quyết.

"Đây là yêu cầu phù hợp với thực tiễn phát triển nhằm phát huy tính chủ động, linh hoạt của địa phương trong việc mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương”, đại biểu nói.

Đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Theo đại biểu Đoàn Lâm Đồng, qua thực tiễn ở nhiều địa phương cho thấy, năng lực thực thi giữa các địa phương chưa đồng đều, đặc biệt ở cấp cơ sở sau khi sắp xếp đơn vị hành chính. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế ở một số địa phương còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm chưa đồng đều. Nguồn lực tài chính, nhất là ở các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn. Nếu không có quy định chặt chẽ về điều kiện, rất dễ dẫn đến tình trạng hình thức, dàn trải và kém hiệu quả.

Để bảo đảm tính khả thi của các quy định về hội nhập quốc tế đối với những địa phương còn nhiều khó khăn về nguồn lực, đặc biệt các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, đại biểu kiến nghị bổ sung cơ chế hỗ trợ từ ngân sách Trung ương đối với nhiệm vụ hội nhập quốc tế có tính bắt buộc, trọng điểm hoặc vượt quá khả năng cân đối của các địa phương.

Đồng thời, đại biểu đề nghị cho phép địa phương được lồng ghép, sử dụng linh hoạt các nguồn kinh phí hợp pháp khác như nguồn hỗ trợ có mục tiêu, nguồn viện trợ, tài trợ hợp tác quốc tế để thực hiện nhiệm vụ hội nhập quốc tế. Trường hợp địa phương chưa đủ điều kiện bảo đảm kinh phí, thì chưa tổ chức thực hiện triển khai mô hình, tránh tốn kém nguồn lực, tránh tạo áp lực lên ngân sách của địa phương và đảm bảo phù hợp với khả năng thực tế.

Đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn Vĩnh Long) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn Vĩnh Long) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn Vĩnh Long) cho rằng dự thảo Nghị quyết đã tiếp cận đúng yêu cầu thực tiễn, tập trung tinh giản thủ tục, rút ngắn thời hạn xử lý và mở rộng cơ chế linh hoạt trong đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Việc rút ngắn thời gian cho ý kiến kiểm tra và thẩm định xuống còn 10 ngày, hoặc 5 ngày theo thủ tục rút gọn là bước tiến lớn giúp tăng tính chủ động và đáp ứng kịp thời yêu cầu đối ngoại trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh chiến lược phức tạp.

Đại biểu cho rằng để quy định này khả thi cần có cơ chế xác nhận hồ sơ đầy đủ ngay khi tiếp nhận, tránh mỗi cơ quan hiểu khác nhau về hồ sơ hợp lệ khiến thời gian xử lý bị kéo dài. Đối với các điều ước đa ngành, tác động sâu rộng như hiệp định thương mại, đầu tư, tài chính, quốc phòng, thời hạn 10 ngày có thể chưa đáp ứng yêu cầu thẩm định. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần cân nhắc cơ chế gia hạn có điều kiện, đồng thời quy định rõ hậu quả pháp lý khi cơ quan không trả lời đúng hạn nhằm bảo đảm tính nghiêm minh.

Đại biểu Trần Thị Vân (Đoàn Bắc Ninh) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Trần Thị Vân (Đoàn Bắc Ninh) phát biểu. Ảnh: Quochoi.vn

Về cơ chế sử dụng nguồn thu từ thuế phòng vệ thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp (Điều 14), dự thảo Nghị quyết, đại biểu Trần Thị Vân (Đoàn Bắc Ninh) cho biết, thực tiễn thời gian qua cho thấy số vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh và ngày càng phức tạp. Tính đến giữa năm 2025, Việt Nam đã phải đối mặt với khoảng 290 vụ việc từ 25 thị trường. Việc bị áp thuế phòng vệ thương mại khiến giá xuất khẩu tăng mạnh, giảm sức cạnh tranh, bào mòn lợi nhuận và nguồn lực của doanh nghiệp, đặc biệt khi các vụ việc kéo dài nhiều năm.

Trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa càng chịu tác động nặng nề, bởi họ không đủ chi phí thuê luật sư, chuyên gia để theo đuổi vụ việc. Nguy cơ mất thị trường hoàn toàn có thể xảy ra, cho dù sản phẩm có chất lượng và năng lực cạnh tranh tốt. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại là cần thiết, cấp bách.

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung phát biểu tiếp thu, giải trình. Ảnh: Quochoi.vn

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung phát biểu tiếp thu, giải trình. Ảnh: Quochoi.vn

Tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo phát biểu tiếp thu, giải trình các ý kiến của đại biểu Quốc hội.

Đình Hiệp

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/them-nhieu-co-che-chinh-sach-dac-thu-nang-cao-hieu-qua-hoi-nhap-quoc-te-724782.html