Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 12-19/10: Vàng tiếp tục phá đỉnh, dầu giảm giá mạnh

Kết thúc tuần giao dịch từ 12-19/10, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá vàng đi ngược xu hướng chung khi vượt mức cao kỷ lục 2.700 USD/ounce, trong khi đa phần các mặt hàng khác giảm giá như dầu, đồng, sắt thép, nông sản…

Năng lượng: Giá dầu giảm hơn 7%, khí LNG giảm hơn 1%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm vào thứ Sáu (18/10) và giảm mạnh hơn 7% trong tuần qua sau khi dữ liệu cho thấy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại. Cụ thể, dầu thô Brent giảm 1,39 USD (-1,87%) xuống 73,06 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 1,45 USD (-2,05%) xuống 69,22 USD/thùng.

Như vậy, giá dầu Brent đóng cửa thấp hơn 7% trong tuần, còn dầu WTI giảm khoảng 8% - đánh dấu mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 2/9/2024, khi OPEC và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cắt giảm dự báo về nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2024 và 2025.

Tại Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ chậm nhất kể từ đầu năm 2023 trong quý III/2024, cho dù mức tiêu thụ và sản lượng công nghiệp trong tháng 9 vượt dự báo.

Sản lượng lọc dầu của Trung Quốc đã giảm trong tháng thứ 6 liên tiếp do biên lợi nhuận lọc dầu giảm và mức tiêu thụ nhiên liệu yếu đã hạn chế hoạt động chế biến. Doanh số bán xe điện tăng 42% vào tháng 8 và đạt mức cao kỷ lục là hơn 1 triệu xe.

Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã triển khai 2 chương trình tài trợ ban đầu sẽ bơm 112,38 tỷ USD vào thị trường chứng khoán thông qua các công cụ chính sách tiền tệ mới được tạo ra.

Tại Mỹ, sản lượng dầu thô tăng 100.000 thùng mỗi ngày (bpd) trong tuần tính đến ngày 11/10/2024 lên 13,5 triệu bpd, từ mức đỉnh trước đó là 13,4 triệu bpd đạt được lần đầu tiên cách đây 2 tháng. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cũng cho biết lượng dầu thô, xăng và sản phẩm chưng cất của nước này đã giảm vào tuần trước nữa.

Doanh số bán lẻ của Mỹ tăng nhẹ hơn dự kiến vào tháng 9, với các nhà đầu tư vẫn định giá 92% khả năng Cục Dự trữ Liên bang (Fed)sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 11 tới.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm 1% xuống mức thấp nhất trong 4 tuần do dự báo thời tiết ôn hòa trong 2 tuần tới sẽ khiến nhu cầu thấp hơn bình thường vào thời điểm này trong năm.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 11/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 2,0 Uscent (-0,8%) xuống2,347 USD/mmBtu - mức thấp nhất kể từ ngày 18/9/2024.

EIA thông tin, các công ty tiện ích đã bổ sung 76 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 11/10.

Tập đoàn Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 101,3 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 10, giảm so với mức 101,8 bcfd vào tháng 9. Con số này tương đương với mức kỷ lục 105,5 bcfd vào tháng 12/2023.

LSEG dự báo thời tiết ấm bất thường sẽ khiến nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, giảm từ 98,1 bcfd trong tuần này xuống 96,4 bcfd vào tuần tới.

Kim loại: Giá vàng vượt 2.700 USD/ounce; đồng, quặng sắt, thép đều giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tuần qua tăng không ngừng nghỉ, vọt lên trên ngưỡng lịch sử 2.700 USD/ounce vào thứ Sáu (18/10) do gia tăng căng thẳng ở Trung Đông, bất ổn xung quanh cuộc bầu cử ở Mỹ và kỳ vọng vào chính sách nới lỏng tiền tệ trên toàn cầu.

Giá vàng giao ngay đạt kỷ lục chưa từng có trong lịch sử 2.722,13 USD/ounce vào ngày 18/10 và tính chung cả tuần tăng 2,4%.

Israel và Hezbollah sẽ tiếp tục chiến đấu ở Gaza và Lebanon đã dập tắt hy vọng rằng, cái chết của thủ lĩnh Hamas có thể đẩy nhanh việc chấm dứt chiến tranh leo thang ở Trung Đông. Căng thẳng địa chính trị gia tăng thúc đẩy các nhà đầu tư đổ xô tìm kiếm các tài sản trú ẩn an toàn như vàng do tâm lý sợ rủi ro và lo ngại về sự bất ổn của thị trường toàn cầu.

Từ đầu năm 2024, vàng đã phá vỡ kỷ lục nhiều lần do dự đoán các ngân hàng trung ương sẽ cắt giảm lãi suất nhiều hơn và bất ổn địa chính trị đã thúc đẩy giá tăng hơn 30% tới nay – mức tăng mạnh nhất trong 1 năm kể từ năm 1979.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng bởi các biện pháp mới thúc đẩy thanh khoản trên thị trường chứng khoán Trung Quốc và kỳ vọng rằng sẽ có nhiều công cụ kích thích hơn từ nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới này sau khi công bố số liệu kinh tế trái chiều.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1% lên 9.609,5 USD/tấn. Hợp đồng này đã xuống mức thấp nhất kể từ ngày 23/9/2024 và ghi nhận tuần thứ 3 sụt giảm liên tiếp.

Nền kinh tế Trung Quốc tăng với tốc độ thấp nhất kể từ đầu năm 2023 trong quý III/2024 và lĩnh vực bất động sản tiếp tục suy yếu mạnh. Các thị trường bất động sản và xây dựng vẫn suy yếu, bổ sung áp lực với đồng, mặt hàng được sử dụng trong lĩnh vực điện và xây dựng. Các kim loại công nghiệp sẽ khó có thể tăng giá trong thời gian dài cho tới khi thị trường này thấy dấu hiệu phục hồi bền vững và tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt Đại Liên - Trung Quốc giảm bởi số liệu cho thấy nền kinh tế và thị trường thép của nước này tiếp tục suy yếu, cho dù tin tức về các biện pháp kích thích mới đã hạn chế đà giảm.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa ngày 18/10 giảm 1,55% xuống 760,5 CNY (106,95 USD)/tấn và cả tuần giảm 3,12%.

Tại Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 1,79% lên 101,4 USD/tấn, nhưng giảm 6,2% trong tuần.

Trong ngày 18/10, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã khởi động 2 chương trình tài trợ và thúc đẩy nhanh chóng thông qua các chính sách tài chính để hỗ trợ thị trường vốn, thúc đẩy tâm lý nhà đầu tư.

Trong khi đó, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 giảm tháng thứ 4 liên tiếp, giảm 1,1% so với tháng 8 và giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước, ngược với dự đoán tăng trước đó.

Tại Thượng Hải, giá thép thanh giảm 1,85%; thép cuộn cán nóng giảm gần 0,8%; thép không gỉ giảm gần 1,3% và dây thép cuộn giảm 0,05%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Giá ngô trên Sàn giao dịch Chicago, Mỹ (CBOT) giảm sau khi giá lúa mì giảm mạnh, nhưng lại được hỗ trợ bởi doanh số xuất khẩu sang Mexico và các thị trường khác. Cụ thể, ngô CBOT kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 2 US cent xuống 4,04-3/4 USD/bushel.

Đậu tương đóng cửa giảm do thời tiết nông vụ cải thiện ở Brazil, việc bán ra liên quan tới phòng hộ khi vụ thu hoạch của Mỹ dần kết thúc và sự lan tỏa khi lúa mì giảm. Cụ thể, đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 18-3/4 US cent xuống 9,7 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cao su đi lên, đường và cà phê diễn biến trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 ít thay đổi tại mức giá 22,18 US cent/lb, nhưng vẫn trên mức thấp 4 tuần trong phiên liền trước là 21,71 US cent. Trong tuần, đường thô đã giảm 0,3%. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 0,2% lên 566,6 USD/tấn.

Các đại lý cho biết, thị trường đường đang thấy những dấu hiệu phục hồi sau khi mất đi lợi thế trong tháng trước. Giá đã tăng vọt lên mức cao nhất 7 tháng hồi tháng 9 vừa qua.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 2,15 US cent (+0,8%) lên 2,573 USD/lb do các đại lý tiếp tục đánh giá mức độ mưa gần đây có thể cải thiện triển vọng mùa vụ năm 2025 ở Brazil.

Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 0,4% lên 4.702 USD/tấn nhưng hợp đồng này vẫn giảm 3% trong tuần và mất 16% trong 3 tuần qua.

Giá cao su Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp trong ngày 18/10 bởi số liệu sản xuất tốt hơn dự đoán và các biện pháp kích thích mới từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, cho dù số liệu tổng thể là yếu hơn đã hạn chế đà tăng.

Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/20205 trên Sàn giao dịch Osaka tăng 9 JPY (+2,33%) lên 394,5 JPY (2,63 USD)/kg trong phiên 18/10 và tính chung cả tuần tăng 2,1%. Cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 440 CNY (+2,46%) lên 18.295 CNY (2.573,03 USD)/tấn và tăng 1,17% trong tuần.

Nền kinh tế Trung Quốc tăng với tốc độ chậm kể từ đầu năm 2023 trong quý III/2024, mặc dù số liệu tiêu dùng và sản lượng sản xuất vượt dự báo, nhưng sự sụt giảm trong lĩnh vực bất động sản vẫn là thách thức lớn đối với Bắc Kinh khi nước này chạy đua để phục hồi tăng trưởng.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/thi-truong-hang-hoa-the-gioi-tuan-tu-12-1910-vang-tiep-tuc-pha-dinh-dau-giam-gia-manh-post356333.html