Thiếu tướng Trịnh Ngọc Huyền - Người con của quê hương Khu Cháy anh hùng

Thiếu tướng Trịnh Ngọc Huyền tiếp tôi trong một sáng mùa thu Tháng Tám, tại nhà ông nằm trong khu tập thể Bộ đội Biên phòng, phố Đào Tấn, Hà Nội. Biết công việc của tôi, trong cái bắt tay rất chặt, chân tình, ông nói: 'Viết về mình nên vừa phải thôi, bởi tất cả những gì có được của mình là nhờ Đảng, Công an, Quân đội, làng quê cho cả'. Ông cười, cái cười đôn hậu, bao dung, làm tôi được thể trò chuyện với ông thoải mái.

"Đảng, Công an, Quân đội, làng quê cho cả" đó là lời nói khiêm nhường từ ông. Khách quan mà nhìn nhận thì cha mẹ, làng quê sinh ra và nuôi dưỡng ông; Đảng, Công an và Quân đội đã tạo cơ hội cho ông, giáo dục ông, nhưng yếu tố quan trọng đó là sự phấn đấu, rèn luyện bền bỉ, kiên cường của bản thân ông, nên làng quê có người con thân thiết, biên cương Tổ quốc có một vị Tướng...

Ông kể: Ông sinh ra ở thôn Khánh Vân, xã Đồng Tân, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (cũ), một vùng quê chiêm trũng. Cuộc sống của người dân quê và gia đình ông đã nghèo, lại nghèo thêm bởi thiên tai, mất mùa liên miên. Song ông rất đỗi tự hào bởi quê hương có truyền thống cách mạng. Từ những năm 1939-1945, Đồng Tân-Khu Cháy (8 xã nam Ứng Hòa) được chọn là "an toàn khu" của Xứ ủy Bắc Kỳ. Đây là địa điểm đi về, hội họp, bàn phương sách chỉ đạo cách mạng của các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh, Đỗ Mười, Bùi Quang Tạo... giúp Xứ ủy lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, "an toàn khu" của Xứ ủy năm xưa trở thành căn cứ kháng chiến vùng Hà Đông-Sơn Tây. Thực dân Pháp đã tìm đủ mọi cách để đánh chiếm, "bình định" cho được Đồng Tân-Khu Cháy, hòng phá tan căn cứ kháng chiến của ta.

 Thiếu tướng Trịnh Ngọc Huyền, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2000-2004).

Thiếu tướng Trịnh Ngọc Huyền, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2000-2004).

Từ năm 1947-1953, đặc biệt những năm 1951-1953, chúng đã tổ chức hàng chục trận càn với quy mô nhiều tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh lính Âu Phi, dân tộc Mường có pháo binh, máy bay yểm trợ bắn phá, chà đi, xát lại, trút xuống làng quê hàng ngàn quả bom, hàng chục nghìn quả đạn pháo... Trịnh Ngọc Huyền từng chứng kiến sự ác liệt, tinh thần dũng cảm, kiên cường chiến đấu, phục vụ chiến đấu của bộ đội, du kích xã, trong đó có cả cha, chú của ông. Nhiều người đã hy sinh, đổ máu trong các trận chống càn của giặc, bảo vệ quê hương.

Trong tổng kết lịch sử chiến tranh của tỉnh Hà Đông đã ghi nhận "Đồng Tân-Khu Cháy điển hình cho sự khốc liệt, tàn phá, điển hình về tội ác chiến tranh của thực dân Pháp gây nên trên đất Hà Đông. Nhưng Khu Cháy cũng là biểu tượng kiên cường, bất khuất, quyết chiến quyết thắng, niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân Ứng Hòa, được Bác Hồ gửi thư khen, được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu "Huyện anh hùng", "Xã anh hùng". Truyền thống của quê hương, gia đình đã tạo cho ông niềm tin, lý tưởng khát khao hoạt động, cống hiến, nâng bước chân ông trên con đường làm người lính Cụ Hồ.

Tháng 2-1960, ông lên đường nhập ngũ vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Cuộc đời quân ngũ 47 năm 8 tháng của ông là một khúc quân hành không nghỉ. Từ Binh nhì thuộc Đại đội 5, Trung đoàn 254 Công an nhân dân vũ trang bảo vệ sân bay, đến Thiếu tướng - Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.

Năm 1965, sau khi tốt nghiệp Sĩ quan Trinh sát khóa 1, Trường Công an Trung ương, Trịnh Ngọc Huyền được chọn về công tác tại Cục Trinh sát, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang. Đây cũng là đơn vị ông công tác lâu nhất (27 năm), trải qua các chức vụ: Trinh sát cơ động, Trợ lý, Đội trưởng đội tình báo, Phó phòng, Trưởng phòng Tham mưu tổng hợp Cục Trinh sát, Cục phó, Cục trưởng Cục Trinh sát Bộ đội Biên phòng.

Tại Cục Trinh sát, ông may mắn được học ở các bậc thầy về công tác phản gián, tình báo, biên phòng như: Nguyễn Quang Việt, Hà Ngọc Tiếu, Lê Hiếu Liêm, Trịnh Trân, Nguyễn Văn Bên, Nguyễn Chức. Được công tác với lớp đàn anh, những đồng chí cán bộ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh với gián điệp, tình báo Mỹ-ngụy như: Vân Hùng, Trần Đình Lưỡng, Trương Xà, Lê Phái, Nguyễn Thanh Hà. Đấu tranh với phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo như: Nguyễn Hải, Việt Hà, Trần Văn Tri, Hoàng Thanh Hồng... và cộng sự với nhiều cán bộ trẻ, những đồng nghiệp tài năng như: Phạm Huy Tập, Nguyễn Sinh Xô...

Ông đã trải qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về chính trị, nghiệp vụ, quân sự... Trung cao Biên phòng, Học viện An ninh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Quốc phòng. Trong quá trình học tập, ông luôn thể hiện sự cố gắng, đồng thời tích cực tham gia hoạt động phong trào của nhà trường. Cuối các khóa học, kết quả đều đạt khá giỏi. Đặc biệt, năm thứ nhất Trường Công an Trung ương, do học giỏi, ông được bình bầu là Chiến sĩ thi đua, được vinh dự kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Những năm công tác ở Cục Trinh sát, ông được tiếp cận nhiều địa bàn trọng điểm, trực tiếp tham mưu chỉ đạo đấu tranh có hiệu quả nhiều chuyên án, vụ án; tham gia giải quyết nhiều điểm nóng về chính trị, trật tự xã hội, xâm phạm chủ quyền, lấn chiếm biên giới, gây rối, gây bạo loạn...

Tôi hỏi ông: Trong quá trình trực tiếp tham gia đánh án, điều gì làm ông ghi nhớ nhất? Ông trầm ngâm suy nghĩ, rồi bộc bạch: "Làm cán bộ trinh sát, phải biết xây dựng mạng lưới, xây dựng thế trận bí mật, mới làm chủ được tình hình. Phải biết đánh án và đánh án giỏi, mới nâng cao năng lực, bản lĩnh chỉ huy tác chiến nghiệp vụ. Thông qua đánh án mới hiểu sâu hơn âm mưu thủ đoạn hoạt động của từng loại đối tượng. Có cơ sở để đề xuất xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ đó mới tham mưu, đề xuất biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với kẻ địch và tội phạm đạt hiệu quả. Qua từng chuyên án, vụ án đã tôi luyện, rèn giũa cho tôi tích lũy nhiều kinh nghiệm, rút ra những bài học quý giá để nhanh chóng trưởng thành".

Có nhiều chuyên án ông nhớ mãi, nhưng ông kể cho tôi nghe 2 vụ, một vụ thời kỳ đầu ở Cục Trinh sát (1965) và một vụ vào thời kỳ cuối ở Cục Trinh sát (1994).

Những năm 1965-1968, để đối phó với phong trào cách mạng miền Nam không ngừng lớn mạnh, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân với quy mô, cường độ cao. Bên cạnh đó, chúng còn tiến hành một loại hoạt động phá hoại hết sức nguy hiểm, xảo quyệt và thâm độc. Đó là, chúng tập trung số cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam, bị chúng bắt giam giữ tại các trại biệt kích, chiêu hồi, ở Mỹ Khê (Đà Nẵng), Long Thành (Đồng Nai)... và số ngư dân các tỉnh khu Bốn, bị Hải quân chúng bắt cóc, đem về các đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), tiến hành tuyển chọn, huấn luyện, giao nhiệm vụ cho hàng loạt người, rồi tung trở lại các tỉnh miền Bắc và một số đơn vị trong chiến trường miền Nam, để hoạt động tình báo, gián điệp cho chúng. Hoạt động trên đã tạo nên tình hình hết sức phức tạp về an ninh chính trị trên diện rộng, buộc ta phải tập trung đối phó.

Một chuyên án được thành lập mang bí số P86. Nhiệm vụ của chuyên án là phải phát hiện cho hết, điều tra, kết luận rõ tính chất, mức độ, từng đối tượng; ngăn chặn, vô hiệu hóa không để đối tượng hoạt động thực hiện nhiệm vụ địch giao; xử lý đúng người, đúng chính sách, pháp luật. Qua đó làm rõ âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tình báo Mỹ-ngụy. Đề xuất chủ trương, đối sách, biện pháp đấu tranh có hiệu quả với phương thức phá hoại mới của địch, giữ ổn định an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ lực lượng chiến đấu cả tiền tuyến và hậu phương.

Do tính chất đặc biệt nghiêm trọng, nên Ban Chỉ đạo chuyên án ở Bộ Công an do đích thân Bộ trưởng làm Trường ban, Thủ trưởng các Tổng cục, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, Cục An ninh Quân đội và các Cục nghiệp vụ có liên quan là thành viên. Ở các tỉnh, thành phố do đồng chí Giám đốc Công an phụ trách. Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang được phân công đảm nhiệm phát hiện, đấu tranh với mảng đối tượng là ngư dân bị địch bắt, giao nhiệm vụ, thả về các tỉnh ven biển.

Sau hơn một năm phối hợp các lực lượng phản gián, tình báo, điều tra xét hỏi, trinh sát kỹ thuật...; bố trí kế hoạch nghiệp vụ: câu nhử, thử thách; kế hoạch tấn công chính trị: giáo dục, tác động thúc thú... nhưng chuyên án vẫn tiến triển chậm, câu dầm, bế tắc. Trung úy Trịnh Ngọc Huyền khi đó là Trợ lý tham mưu tổng hợp của Cục Trinh sát, được Thủ trưởng Cục cử làm Thư ký Ban Chuyên án của Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang. Ông đã dành nhiều thời gian cùng các trinh sát cơ động bám, nắm, nghiên cứu tình hình hoạt động của số ngư dân bị địch bắt thả về ở các trọng điểm. Qua điều tra cụ thể ở địa bàn, nghiên cứu văn bản, hồ sơ các vụ án, cũng như được dự họp, nghe ý kiến trao đổi của Ban Chuyên án, ông đã phát hiện một số vấn đề tồn tại nổi lên:

Địch giao nhiệm vụ cho hàng trăm ngư dân với những nhiệm vụ rất cụ thể. Có nhiều người tuy khả năng và nhân thân, không thể thực hiện được nhiệm vụ, nhưng địch vẫn giao. Nhưng ta mới phát hiện được một số ít có biểu hiện nghi vấn thực hiện nhiệm vụ địch giao.

Trước thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc, cộng với hoàn cảnh cụ thể của từng người, hầu hết số bị địch bắt đã khai báo tình hình địa phương, đơn vị, bản thân cho địch, nhưng chưa bộc lộ hết với tổ chức, với cơ quan điều tra.

Số người bị bắt địch giao nhiệm vụ (ngư dân, bộ đội, thanh niên xung phong) hầu hết là thành phần cơ bản, gia đình có truyền thống cách mạng. Thời gian bị địch bắt, giam giữ, tác động không nhiều, nên khi về đã tự báo, tự thú, không dễ gì cam tâm làm tay sai cho địch.

Nguyên nhân chính của những tồn tại trên, do ta chưa nắm được thực chất các hoạt động của địch đối với số bị bắt ở căn cứ, nơi giam giữ, huấn luyện... nên chưa đủ cơ sở để đánh giá, kết luận về họ, về âm mưu, thủ đoạn của địch. Trịnh Ngọc Huyền mạnh dạn tham mưu cho Cục, đề xuất với Bộ Tư lệnh kế hoạch táo bạo: tổ chức lực lượng bí mật cả cơ sở và trinh sát xã hội hóa, bố trí cho địch bắt, để vào sâu căn cứ địch. Qua đó, nắm cụ thể tình hình. Biết đây là kế hoạch khá mạo hiểm, nhưng nếu không tổ chức thực hiện, chuyên án không tiến triển được. Thủ trưởng Cục Trinh sát tuy còn phân vân, nhưng các ông rất tin vào khả năng "phát hiện vấn đề" của người Trợ lý tham mưu tổng hợp năng động và nhạy bén. Cục Trinh sát đã báo cáo kế hoạch lên Bộ Tư lệnh. Được Bộ Tư lệnh đồng ý, Đại tá Hà Ngọc Tiếu trực tiếp phê duyệt và chỉ đạo thực hiện. Cục Trinh sát được giao tuyển chọn một số cán bộ trinh sát và số ngư dân Công giáo. Trinh sát các tỉnh ven biển từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh chọn trong mạng lưới có sẵn trong ngư dân. Để thực hiện nhiệm vụ được phân công và giúp các địa phương, Cục Trinh sát tổ chức 2 đội công tác tại địa bàn ven biển khu Bốn. Đồng chí Trịnh Ngọc Huyền và đồng chí Vũ Đình Thành được đi cùng đồng chí Nguyễn Việt Hà, Phó phòng Phản gián biển vào tuyến Quảng Bình-Vĩnh Linh.

Sau 3 tháng, lực lượng Trinh sát của Cục và các địa phương đã tuyển chọn, huấn luyện được 21 cơ sở tham gia chuyên án. Đúng như dự kiến, 5 tháng sau, đã có 19 cơ sở bị địch bắt, thả về. Qua báo cáo của cơ sở trinh sát và lời khai của ngư dân bị địch bắt, giao nhiệm vụ thả về trước đây, Ban Chỉ đạo chuyên án của Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang đã có cơ sở kết luận:

Số bị địch bắt đều bị chúng khai thác toàn diện, cụ thể tình hình quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội ở xã, huyện, đơn vị. Đặc biệt là thời gian, địa điểm của các đơn vị hành quân chi viện chiến trường; những sai phạm của cán bộ ở miền Bắc như: tham ô, hủ hóa, có liên quan đến những người đang chiến đấu ở miền Nam. Bằng những thông tin cụ thể, người thật việc thật, chúng đã tiến hành tập kích vũ trang, chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, ly gián nội bộ, nói xấu chế độ ta, gây hậu quả nghiêm trọng.

Về hoạt động tình báo, gián điệp: Sau khi khai thác tình hình, số đông được chúng giao nhiệm vụ và huấn luyện đơn giản. Những người có quan hệ thân thuộc với chế độ cũ, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, những người theo đạo Thiên chúa, thì chúng quan tâm hơn. Cá biệt có trường hợp chúng bí mật cho vào nội địa, gặp người thân di cư vào Nam, đi lễ nhà thờ, được linh mục tổ chức động viên, thăm hỏi, giao nhiệm vụ liên lạc với linh mục miền Bắc, chỉ điểm cho biệt kích xâm nhập, phá hoại... Một số hoạt động khác mang tính chất gây nghi ngờ trong những người bị bắt: ở riêng, gặp riêng, tặng quà... cho thấy địch kết hợp "chọn kỹ cài sâu" với "vãi lấm bôi lem". Đại bộ phận số người bị địch bắt giam, giao nhiệm vụ thực sự là nạn nhân về một âm mưu của địch; nhằm gây rối, gây nghi ngờ, phá hoại khối đoàn kết, sức chiến đấu của quân và dân ta ở hậu phương và tiền tuyến.

Từ kết luận trên, Ban Chuyên án Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang đề xuất với lãnh đạo Bộ, chỉ đưa vào chuyên án những đối tượng đủ tài liệu chứng minh, có điều kiện, khả năng hoạt động và có biểu hiện thực hiện nhiệm vụ địch giao. Các đối tượng khác thì tổ chức gặp gỡ, giáo dục, nói rõ khuyết điểm, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch đối với họ; giao nhiệm vụ cho họ như một cơ sở (loại khỏi đối tượng chuyên án). Chủ trương này của Ban Chuyên án Công an nhân dân vũ trang, được Ban Chỉ đạo chuyên án Bộ Công an đánh giá cao và cho vận dụng, giải quyết cả với đối tượng P86 là bộ đội và thanh niên xung phong.

Kết quả, riêng mảng ngư dân, loại khỏi chuyên án 287/394 đối tượng. Tập trung lực lượng đấu tranh hiệu quả với trên 100 đối tượng trọng điểm. Tình hình nhân dân ven biển ổn định, khí thế sản xuất, chiến đấu, chi viện chiến trường được nâng cao. Chuyên án thắng lợi, là công sức, trí tuệ của toàn ngành, toàn lực lượng, đặc biệt là lực lượng đánh án của Cục Trinh sát. Được tham gia chuyên án, Trung úy Trịnh Ngọc Huyền thấy vinh dự và trưởng thành lên rất nhiều. Qua Chuyên án này, thực sự đã giúp ông học tập, rút được nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt, là vận dụng đường lối trấn áp phản cách mạng vào thực tiễn đấu tranh với kẻ địch và các loại tội phạm. Bài học của chuyên án còn là tiền đề, cơ sở cho bản thân ông sau này, trong công tác tham mưu, chỉ đạo, chỉ huy đấu tranh có hiệu quả với đối tượng gián điệp, tình báo Mỹ-ngụy, các tổ chức phản động lưu vong, vượt biên, xâm nhập và đối tượng T110 trên các tuyến biên giới, bờ biển đất nước thống nhất.

Vụ thứ 2 ông kể tôi nghe là vụ ông tham gia giải quyết "điểm nóng" Trung Lương (Nghi Xuân-Hà Tĩnh).

Năm 1994, cán bộ, đảng viên Đội 4, Hợp tác xã nông nghiệp Trung Lương phát hiện một số cán bộ chủ chốt của xã sai phạm trong bổ nhiệm cán bộ, tham ô trong tổ chức xây dựng các công trình công cộng. Nội dung vi phạm không lớn, giá trị kinh tế không nhiều, nhưng cán bộ xã, huyện không giải quyết thỏa đáng. Khi phát hiện cán bộ xã, huyện có dấu hiệu bao che cho số vi phạm, cán bộ, đảng viên Đội 4 đã gửi đơn thư khiếu kiện lên huyện, lên tỉnh. Sự việc không được giải quyết dứt điểm, nên đảng viên và nhân dân có phản ứng tiêu cực.

Đỉnh điểm là số cán bộ, đảng viên này đã tập hợp được đa số quần chúng nhân dân phản ứng lại các quyết định của chính quyền xã, huyện. Họ lợi dụng quần chúng, chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em làm áp lực, cô lập những cán bộ, đảng viên trung kiên, lôi kéo cán bộ bất mãn, tẩy chay, đẩy đuổi các Đoàn công tác của huyện, tỉnh ra khỏi thôn, yêu cầu Trung ương vào giải quyết. Nghiêm trọng hơn, số này đã tổ chức lực lượng đào hào, tuần tra, cảnh giới, báo động, tự trang bị vũ khí thô sơ, tro cay… chuẩn bị phương án chống lại chính quyền, nếu vào bắt họ.

Trước tình hình phức tạp trên, tỉnh Hà Tĩnh đã có chủ trương sử dụng lực lượng mạnh để giải quyết, xin ý kiến Bộ Công an, báo cáo Ban Bí thư để tổ chức thực hiện. "Tiếng vang điểm nóng" Trung Lương đã vượt khỏi phạm vi tỉnh Hà Tĩnh, ảnh hưởng tiêu cực đến một số vùng địa bàn Quân khu 4. Ban Bí thư giao cho đồng chí Lê Minh Hương, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an trực tiếp kiểm tra, nắm tình hình, chỉ đạo giải quyết "điểm nóng" Trung Lương. Lúc này, ông Trịnh Ngọc Huyền đã là Cục trưởng Cục Trinh sát, được Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ cùng các Tổng cục nghiệp vụ của Bộ, làm tham mưu cho Bộ trưởng chỉ đạo, xử lý.

Đoàn công tác nghe lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh báo cáo. Các ban, ngành trong tỉnh đều nhất trí với kế hoạch của tỉnh. Ý kiến của Tổng cục Cảnh sát cơ bản đồng tình với kế hoạch của tỉnh, song băn khoăn nếu ta dùng lực lượng vũ trang bao vây, đột nhập bí mật bắt "nhóm chống đối", bị đối tượng và quần chúng phát hiện, họ sẽ phản ứng.

Có thể họ sẽ dùng vũ khí thô sơ chống lại, gây ra ẩu đả cao hơn, thì xử trí thế nào? Đồng chí Bộ trưởng yêu cầu ý kiến của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Với bản lĩnh và kinh nghiệm đã tham gia chỉ đạo, xử lý một số điểm nóng về an ninh chính trị và mâu thuẫn nội bộ, Cục trưởng Trịnh Ngọc Huyền nghiên cứu rất kỹ kế hoạch của tỉnh. Ông đã phát hiện một số nội dung trong báo cáo của tỉnh không phù hợp với diễn biến thực tế tình hình. Đặc biệt, việc đánh giá đối tượng, đề xuất phương án xử lý của tỉnh chưa đúng với quan điểm, nguyên tắc của Đảng trong xử lý mâu thuẫn nội bộ. Ông đề nghị lãnh đạo tỉnh làm rõ tình tiết trong báo cáo của tỉnh, kết luận "nhóm chống đối" có 17 tội; nhưng về phía cán bộ xã, huyện có sai phạm và sai phạm đến đâu trong bổ nhiệm cán bộ, trong tham ô xây dựng công trình công cộng, trong chỉ đạo giải quyết các khiếu nại, tố cáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã khách quan, dân chủ chưa? Đây là gốc của vấn đề, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Nếu không nhìn thẳng vào sự thật để làm rõ đúng, sai thì không giải quyết được tận gốc.

Nhất là trong "nhóm chống đối" có người từng là cán bộ xã, tham gia cấp ủy, sĩ quan quân đội đã trực tiếp chiến đấu. Việc tỉnh xác định tính chất vụ này là đối kháng (mâu thuẫn địch-ta) cần xem xét lại. Vì mục đích của họ chỉ yêu cầu xã thực hiện đúng chính sách, thu hồi tài sản tham ô về cho tập thể. Ta chưa có tài liệu chứng minh có bàn tay kẻ địch trong vụ này. Theo ông, dù diễn biến căng thẳng như tỉnh nêu, thì tính chất của vụ này vẫn là mâu thuẫn nội bộ. Về sử dụng lực lượng vũ trang (Cảnh sát, Biên phòng, dân quân) và đề nghị Bộ Công an tăng cường Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm Biên phòng làm chủ công để giải quyết mâu thuẫn nội bộ là không phù hợp.

Ý kiến của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng trái ngược với kế hoạch của tỉnh, nhưng lại được đồng chí Bộ trưởng đánh giá cao và chấp nhận. Ngay sau đó, kế hoạch giải quyết "điểm nóng" Trung Lương được chỉ đạo triển khai khẩn trương, quyết liệt. Giải pháp đầu tiên vẫn là đối thoại thẳng thắn với nhân dân; xử lý sai phạm rõ ràng, minh bạch, đúng quy trình của Đảng và pháp luật Nhà nước như đề xuất của Biên phòng. Chỉ sáu tháng sau, sự việc đã được giải quyết dứt điểm, củng cố được tổ chức Đảng, chính quyền từ xã đến huyện, tỉnh, khôi phục lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Năm 1982, cách mạng Campuchia có bước phát triển mới. Đảng, Nhà nước ta giao cho Quân đội, Công an, Bộ đội Biên phòng giúp bạn xây dựng lực lượng để chủ động quản lý đất nước. Thực hiện chủ trương của trên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ chức Đoàn cán bộ sang nghiên cứu, nhằm đề xuất phương án giúp Bạn triển khai công tác biên phòng trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan. Với cương vị Phó đoàn công tác, ông Trịnh Ngọc Huyền chịu trách nhiệm chính về nghiên cứu, đề xuất phương án. Đây là nhiệm vụ nặng nề và nhiều khó khăn. Phải hiểu được thực tiễn chiến trường biên giới, xu hướng quan hệ đối ngoại và khả năng lực lượng của bạn, mới có cơ sở để đề xuất phương án giúp Bạn về công tác biên phòng.

Ông chậm rãi kể tôi nghe: Đoàn công tác lên đường từ sân bay Tân Sơn Nhất tới thẳng Xiêm Riệp, nơi đặt đại bản doanh của Mặt trận 479. Thông qua Cục Tác chiến, Đoàn báo cáo kế hoạch nghiên cứu với Bộ Tư lệnh Mặt trận, và nắm tình hình khái quát toàn tuyến. Đơn vị nghiên cứu đầu tiên là D4-E8 (Tiểu đoàn Phái viên), đóng quân tại trung tâm huyện Thơ Ma Phuốc, tỉnh Bát Tam Boong, làm nhiệm vụ đánh địch bảo vệ dân, bảo vệ chính quyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước Campuchia và Mặt trận 479, và cũng là đơn vị sẵn sàng chi viện cho đơn vị chốt chặn trên biên giới. Do tính chất nhiệm vụ, các đơn vị này gần giống với đồn Biên phòng của ta, nên Đoàn công tác quyết định nghiên cứu kỹ.

Đoàn đã cử cán bộ cùng đơn vị thâm nhập địa bàn nắm tình hình, vận động quần chúng củng cố cơ sở chính trị; đồng thời tham gia tuần tra, chiến đấu chống địch tập kích, phá hoại. Ngoài địa bàn D4, Đoàn còn nghiên cứu một số đơn vị phòng thủ biên giới, có địa bàn núi cao, rừng rậm, có cửa khẩu đường bộ, đường sắt, để nắm thêm tình hình hoạt động của địch, tình hình dân cư và cách bố trí lực lượng, phương án tác chiến của ta và bạn. Qua thông báo của Mặt trận và nghiên cứu thực tế, ông và các đồng chí trong Đoàn được biết, tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, về địch: nơi tập trung các sư đoàn tàn quân Pôn Pốt, cơ quan Bộ Tổng tham mưu, cùng chính quyền trung ương của chúng. Lợi dụng địa hình hiểm trở, sự hỗ trợ từ nước ngoài, chúng tổ chức nhiều trận tấn công, tập kích, phục kích đánh vào các đơn vị quân tình nguyện, gây nhiều tổn thất, nhất là các đơn vị trên tuyến biên giới. Sau 4 năm (1979-1982), chúng đã bị quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của bạn tiến công, truy quét, tiêu diệt, gọi hàng, làm tan rã cơ bản.

Tại thời điểm này, trên một số địa bàn 5 tỉnh biên giới, đặc biệt là đoạn biên giới quốc lộ 56 Pua Xát, tây Bát Tam Boong, đông bắc Prêt Vi Hia, số tàn quân Pôn Pốt còn lại, tiếp tục co cụm củng cố lực lượng, bí mật xâm nhập phục kích, tập kích vào các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam. Chúng gài mìn phá hoại cầu đường, móc nối, cài cắm cơ sở sâu trong các phum, sóc, tuy số lượng ít, quy mô nhỏ lẻ, nhưng tiềm ẩn gây mất ổn định không nhỏ.

Trên đoạn biên giới này, bọn phản động lưu vong người Việt từ Mỹ, Thái Lan, đã tổ chức đường dây xâm nhập về Việt Nam hoạt động chống phá. Về lực lượng ta, trên hướng này bố trí các sư đoàn của Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Quân đoàn 4. Ở tuyến 1 (sát biên giới), cùng với 6 trung đoàn quân tình nguyện Biên phòng có 2 trung đoàn của bạn và các đơn vị phía trước của Quân khu 5, 7, 9 làm nhiệm vụ đánh địch bảo vệ địa bàn biên giới. Một số đoạn biên giới trọng điểm và các trục đường từ biên giới vào, được xây dựng hệ thống phòng ngự: tường cao, hào sâu, hố bắn; bố trí các tiểu đoàn chốt chặn cơ động đánh địch.

Các phum, sóc, thị trấn, huyện biên giới, bạn bố trí các đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ dân. Theo ông, Đảng, Nhà nước ta đang giúp bạn đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, tạo vị thế cho Đảng Nhân dân Campuchia và sự ra đời của Chính phủ hòa hợp dân tộc; Mặt trận 479 đang ráo riết, triển khai chiến dịch truy quét, kết hợp vận động gọi hàng, nhằm làm tan rã số đơn vị tàn quân co cụm (kể cả một số mục tiêu trên đất Thái Lan), chắc chắn tình hình cách mạng Campuchia và việc triển khai công tác biên phòng của Bạn có nhiều thuận lợi.

Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát, Đoàn đã đề xuất phương án giúp Bạn với nội dung chính như sau: Về tổ chức lực lượng, ở những tỉnh trọng điểm, lập 1 trung đoàn biên phòng; các tỉnh không trọng điểm, 2 tỉnh lập 1 trung đoàn. Về biên chế, lấy 2 trung đoàn chủ lực của bạn làm nòng cốt, số còn thiếu bổ sung ở tuyến khác về. Chính diện biên giới là 5 tỉnh từ Cô Công đến Prết Vi Hia, chiều sâu khu vực biên giới là một huyện. Nhiệm vụ của các trung đoàn biên phòng là chống lại các hoạt động xâm nhập, phá hoại của tàn quân Pôn Pốt và bọn phản động khác; bảo vệ biên giới, bảo vệ chính quyền và nhân dân. Về biện pháp công tác, kết hợp trinh sát, vũ trang với vận động quần chúng và địch vận. Đây là phương án quá độ, phù hợp với tình hình, tính chất mối quan hệ biên giới Campuchia-Thái Lan, sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút quân về nước. Nhưng ngay từ bây giờ, phải bố trí đội ngũ chuyên gia triển khai kế hoạch, giúp Bạn hình thành tổ chức lực lượng, huấn luyện công tác biên phòng, để Bạn chủ động thực hiện.

Phương án của Đoàn được Bộ tư lệnh báo cáo Bộ Công an chấp nhận, và phía Bạn đồng ý. Một lớp huấn luyện công tác biên phòng đầu tiên cho bạn được tổ chức tại Phnôm Pênh, với 500 học viên (cấp cao nhất là Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách biên phòng). Kết thúc đợt công tác, đồng chí Trịnh Ngọc Huyền cùng Đoàn công tác hoàn thành cơ bản "Phương án giúp Bạn tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới". Bằng kinh nghiệm và nhiệt huyết của người sĩ quan Trinh sát Biên phòng, ông đã cùng các đồng chí trong Đoàn hướng dẫn tận tình về nghiệp vụ công tác biên phòng cho các học viên. Kết quả, hầu hết số học viên đã nắm được những kiến thức cơ bản của công tác bảo vệ biên giới, công tác tổ chức xây dựng lực lượng. Một số học viên sau này đã trở thành những lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt của Quân đội Hoàng gia và Tổng cục Công an Vương quốc Campuchia. Cũng trong đợt công tác này, Đoàn đề xuất Cục Trinh sát, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng củng cố hai đội tình báo ở Kô Công, Pua Xát và nghiên cứu bố trí lực lượng nghiệp vụ trên tuyến này.

Năm 1988, thực hiện quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược, Thiếu tá Trịnh Ngọc Huyền được Bộ Tư lệnh điều đi thực tế Chỉ huy tại Bộ đội Biên phòng Tây Ninh, tỉnh trọng điểm trên tuyến biên giới Tây Nam. Giai đoạn này phía ngoại biên của tỉnh, các đảng phái chính trị phản động, tàn quân Pôn Pốt ráo riết tuyên truyền kích động vấn đề biên giới lãnh thổ. Chúng tăng cường hoạt động gây rối, cướp của, giết người, phá hoại tình đoàn kết hữu nghị, chia rẽ nhân dân và quân đội hai nước. Lợi dụng mở cửa buôn bán qua lại các cửa khẩu, bọn tình báo, gián điệp, phản động lưu vong người việt xâm nhập về Việt Nam, bọn tội phạm hình sự ráo riết hoạt động. Trước tình hình phức tạp đó, ông được phân công theo dõi, chỉ đạo mảng công tác an ninh trật tự và quan hệ đối ngoại biên giới, được bổ sung vào Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh.

Ông xuống các đồn, các đơn vị, trực tiếp kiểm tra, đánh giá thực chất tình hình địch và các loại đối tượng, tình hình nhân dân và quan hệ hai bên biên giới; việc xây dựng khu vực phòng thủ và tổ chức bảo vệ biên giới từ Đồn Biên phòng Phước Chỉ đến Đồn Biên phòng Tống Lê Chân.

Qua kiểm tra, ông nhận thấy các đơn vị đã có nhiều ưu điểm trong công tác giáo dục chính trị, rèn luyện bản lĩnh vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ; tổ chức quản lý, bảo vệ biên giới, xây dựng hệ thống phòng thủ, chủ động phương án chiến đấu chống hoạt động phá hoại, cướp bóc của tàn quân Pôn Pốt. Các đơn vị cửa khẩu tăng cường kiểm soát xuất, nhập cảnh, đấu tranh phòng chống buôn lậu qua biên giới đạt hiệu quả. Tuy nhiên, một số đơn vị đã bộc lộ những hạn chế trong việc phát hiện, đấu tranh với đối tượng tình báo, gián điệp, phản động và tội phạm hoạt động qua biên giới. Ông đã chỉ ra nguyên nhân hạn chế, cùng tập thể Bộ Chỉ huy đề ra chủ trương, đối sách, thực hiện quyết tâm bảo vệ biên giới của Chỉ huy trưởng. Chỉ đạo các kế hoạch chuyên ngành, đặc biệt là kế hoạch công tác trinh sát. Tham mưu cho Tỉnh ủy ra Nghị quyết tăng cường công tác quản lý và bảo vệ biên giới đáp ứng tình hình mới.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy và quyết tâm bảo vệ biên giới của Chỉ huy trưởng, ông đã tập trung công sức chỉ đạo công tác trinh sát, nâng cao chất lượng thực hiện nghiệp vụ cơ bản, công tác nắm tình hình nội, ngoại biên, xây dựng thế trận bí mật. Kết hợp đồng bộ các biện pháp biên phòng, phối hợp với các lực lượng ở địa bàn và ở ngoại biên, bắt giữ tình báo, gián điệp, phản động lưu vong xâm nhập, triệt phá nhiều toán cướp có vũ trang, bóc gỡ nhiều đường dây buôn lậu qua biên giới... Vị thế của Bộ đội Biên phòng Tây Ninh được nâng cao. Mối quan hệ với các ban, ngành, huyện, xã hai bên biên giới được mở rộng. Cấp ủy, chính quyền và nhân dân thực sự tin tưởng. Hai năm 1989, 1990 Bộ đội Biên phòng Tây Ninh được nhận cờ thi đua xuất sắc của Bộ Tư lệnh, Bộ Quốc phòng.

Thời gian không dài, nhưng những cống hiến của ông cho Bộ đội Biên phòng Tây Ninh thật đáng trân trọng. Ông không ngại khó khăn, hòa mình vào cuộc sống, chiến đấu của đồng bào, đồng chí với nhiệt huyết của người cán bộ, đảng viên, luôn trăn trở vì nhiệm vụ. Khi chia tay, anh Hai Huyền (tên thân mật mà đồng bào, đồng chí gọi ông) đã để lại trong lòng người Tây Ninh những tình cảm lưu luyến không nguôi...

Tháng 7-1990, ông được điều động trở lại Cục Trinh sát giữ chức Trưởng phòng Tổng hợp. Tháng 12-1990, ông được bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Trinh sát Bộ đội Biên phòng. Tháng 2-1994, ông được bổ nhiệm Cục trưởng Cục Trinh sát và bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ đội Biên phòng. Tiếp nối công việc của người tiền nhiệm, trước bối cảnh tình hình mới có nhiều khó khăn phức tạp, ông vừa noi gương, khiêm tốn học hỏi, vừa kịp thời đúc rút kinh nghiệm để chủ trì công việc của một cơ quan đầu ngành về biện pháp công tác "mũi nhọn", ông coi trọng cả công tác nắm phân tích, đánh giá, dự báo tình hình tổng kết công tác nghiệp vụ cơ bản, công tác phản gián, tình báo biên phòng, đổi mới biện pháp công tác Trinh sát; triển khai lực lượng bám sát cơ sở, các đơn vị địa bàn trọng điểm, làm tốt vai trò tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh trong nhiệm vụ công tác biên phòng, giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn biên giới, vùng biển phục vụ tốt đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước.

Tháng 3-1995, Thượng tá Trịnh Ngọc Huyền được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Ngày 11-11-2000 được Thủ tướng Chính phủ trao Quyết định giữ chức Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, tháng 2-2002 được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm Thiếu tướng.

Được đảm nhiệm các cương vị mới, với ông, vừa là niềm vinh dự, nhưng trọng trách cũng rất nặng nề, có những thuận lợi, nhưng cũng nhiều khó khăn, thử thách. Thuận lợi lớn nhất, đó là đất nước sau 20 năm thống nhất và 10 năm đổi mới, thực hiện đường lối mở cửa, kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác đa phương, đa dạng với các nước, tạo thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng-an ninh; ngày 8-8-1995, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 11 "Xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới".

Khẳng định vai trò, vị trí của lực lượng nòng cốt chuyên trách, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới trước yêu cầu mới. Song khó khăn nổi lên, đây cũng là thời điểm Mỹ và các thế lực thù địch, phản động lưu vong, T110, đã lợi dụng mặt trái, kẽ hở đường lối đổi mới, mở cửa, kinh tế thị trường, xâm nhập sâu vào biên giới, nội địa, nội bộ ta. Chúng đã móc nối, kích động phần tử xấu, bất mãn chế độ, với bọn phản động trong vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo hoạt động chống đối, phá hoại trên nhiều địa bàn, lĩnh vực. Điển hình, chúng đã tập hợp lực lượng nhen nhóm tổ chức phản động trong dân tộc Khơme (Tây Nam Bộ), gây phỉ ở địa bàn biên giới Hủa Phăn (Lào) - Mường Lạn (Sơn La, Việt Nam); kích động hàng nghìn người dân tộc Thượng Tây Nguyên gây rối, gây bạo loạn, vượt biên ra nước ngoài; trắng trợn hơn, chúng dùng máy bay, tàu thủy xâm nhập, thả truyền đơn kêu gọi chống Đảng, chính quyền, đòi quốc tế can thiệp.

Đối tượng T110 xâm nhập, móc nối, cài cắm cơ sở vào nội bộ nhiều xã, huyện, tỉnh, bộ, ban, ngành, lực lượng vũ trang (Công an, Quân đội, Biên phòng) thu thập thông tin, tài liệu bí mật quốc gia. Lợi dụng đổi mới, mở cửa, kinh tế thị trường, các đối tượng hình sự, buôn lậu hàng hóa, ma túy, vũ khí, chất nổ, phụ nữ, trẻ em qua biên giới, vùng biển, phát triển chưa từng có, với tính chất táo bạo, nhiều tổ chức, đường dây xuyên quốc gia… ảnh hưởng xấu đến kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.

Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới vốn đã rất phức tạp, nay có thêm nội dung mới: Đàm phán giải quyết biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng (phân giới cắm mốc biên giới trên bộ, phân định vịnh Bắc bộ với Trung Quốc; tôn tạo tăng dày cột mốc biên giới với Lào; tiếp tục phân giới cắm mốc biên giới với Campuchia. Đây là cuộc chiến đấu mới (đấu lý, đấu trí, đấu lực), để bảo vệ chủ quyền, xây dựng biên giới pháp lý rõ ràng, biên giới hòa bình, hữu nghị.

Với vị trí, trách nhiệm Phó tư lệnh tác chiến, nghiệp vụ, rồi Tư lệnh, người chủ trì lực lượng đồng thời là thành viên Ban Chỉ đạo Chính phủ, Bộ Quốc phòng về phòng chống tội phạm ma túy (06), phòng chống buôn lậu (138); về giải quyết điểm nóng ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ; về đàm phán phân giới cắm mốc với Trung Quốc, Lào, Campuchia; phòng chống lụt bão, cứu hộ, cứu nạn, ông đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ Tư lệnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy truyền thống và sức mạnh tổng hợp của cơ quan, đơn vị, tạo sự đoàn kết, phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm cao.

Xây dựng và phát triển mối quan hệ, hợp tác, giúp đỡ của các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền, nhân dân các địa phương, các Quân khu, Quân chủng trong toàn quân; lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng và lực lượng chống tội phạm ở khu vực. Nắm vững nhiệm vụ chính trị, đề cao trách nhiệm, làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, lãnh đạo, chỉ huy lực lượng Bộ đội Biên phòng khắc phục khó khăn, đổi mới toàn diện, mạnh mẽ công tác biên phòng, xây dựng Bộ đội Biên phòng ổn định và phát triển.

Đảm bảo an ninh trật tự khu vực biên giới, tham gia giải quyết các "điểm nóng" về an ninh chính trị luôn được Bộ tư lệnh xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của lực lượng. Ông đã chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp biên phòng.

Chủ động tham mưu cho Chính phủ, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng trên các địa bàn trọng điểm, tăng cường lực lượng nghiệp vụ, trinh sát ngoại biên, trinh sát kỹ thuật, tác chiến điện tử, phòng chống tội phạm ma túy, xây dựng Hải đoàn 48; điều chỉnh, bổ sung công tác nghiệp vụ cơ bản, bố trí thế trận bí mật, phương án chiến đấu… hướng toàn bộ sự chỉ đạo và hoạt động của lực lượng vào mục tiêu: Chủ động nắm tình hình, nắm chắc dân, quản lý chặt đối tượng ở địa bàn biên giới. Vươn ra nắm, đánh địch và bọn tội phạm từ ngoài biên giới, từ nơi xuất phát, đứng chân xâm nhập vào biên giới. Tư tưởng chỉ đạo đó đã tạo nên chất lượng tổng hợp của toàn lực lượng. Phát hiện kịp thời, đấu tranh có hiệu quả hàng ngàn vụ xâm nhập, hoạt động phá hoại của tình báo, gián điệp, phản động lưu vong, T110, tội phạm hình sự, buôn bán, vận chuyển ma túy, vũ khí, chất nổ, phụ nữ, trẻ em, tiền giả qua biên giới. Đã hạn chế tới mức thấp nhất hoạt động của các đối tượng tại địa bàn biên giới tham gia gây phỉ, gây rối, bạo loạn chính trị ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên.

Phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới nước bạn Lào, Campuchia tổ chức ngăn chặn, xử lý tại biên giới hàng nghìn người dân tộc thiểu số vượt biên, không để nước ngoài tạo cớ, can thiệp. Đối với một số điểm nóng về an ninh chính trị, ông đã cùng Đảng ủy, Bộ tư lệnh chủ động nắm chắc tình hình, tăng cường kế hoạch bảo vệ biên giới, chủ động tham mưu cho Ban chỉ đạo điểm nóng của Chính phủ những biện pháp thiết thực, hiệu quả (ngăn chặn vượt biên ở Tây Nguyên; đề xuất chủ trương chính xác là chưa tăng cường lực lượng, chưa lập Ban chỉ đạo tiền phương) đối phó với thông tin nổi phỉ ở khu vực biên giới Mường Lạn (Sơn La) năm 2003...), được Ban chỉ đạo đánh giá cao, Chính phủ ghi nhận.

Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là một trong hai nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Bộ đội Biên phòng, trước yêu cầu đổi mới. Ông đã cùng Đảng ủy, Bộ tư lệnh đề xuất cho Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, đối sách, văn bản pháp luật để quản lý, xây dựng, bảo vệ biên giới; phát hiện, xử lý đúng đắn, kịp thời hàng ngàn vụ vi phạm biên giới, vùng biển. Vừa kiên quyết giữ vững chủ quyền lãnh thổ, tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước, bảo vệ biên giới lãnh thổ; vừa xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng, phục vụ chủ trương mở cửa, giao lưu hợp tác quốc tế.

Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng, khôi phục quan hệ đối ngoại biên phòng Liên bang Nga sau 10 năm gián đoạn, quan hệ đối ngoại phòng chống tội phạm với các nước trong khu vực. Về đàm phán biên giới, trước đối tượng có tiềm lực, kinh nghiệm, đặc biệt có nhiều thủ đoạn, mưu đồ lấn chiếm như Trung Quốc; biên giới có nhiều vấn đề do lịch sử để lại như Campuchia, Lào.

Nắm vững quan điểm đường lối, phương châm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong quá trình đàm phán, ông đã chỉ đạo Bộ đội Biên phòng làm tốt chức năng, nhiệm vụ lực lượng nòng cốt, chuyên trách, trực tiếp bảo vệ tốt hiện trạng đường biên, mốc giới; thu thập tài liệu chứng lý, phục vụ các phương án đàm phán; đấu tranh chống lại âm mưu lấn chiếm biên giới, giải quyết thỏa đáng các đoạn biên giới còn "nhận thức khác nhau", kiên trì đấu tranh bảo vệ những đoạn biên giới có vị trí trọng yếu về quân sự, kinh tế.

Về nhiệm vụ xây dựng lực lượng, trưởng thành từ thực tiễn chiến đấu, công tác, ông ý thức được vị trí, tầm quan trọng trong vai trò nòng cốt, chuyên trách của Bộ đội Biên phòng trước yêu cầu tổ chức bảo vệ biên giới trong giai đoạn mới. Ông đã cùng tập thể Đảng ủy, Bộ tư lệnh tập trung chỉ đạo, nghiên cứu tổng kết đổi mới các biện pháp công tác biên phòng.

Trực tiếp chỉ đạo tổng kết công tác trinh sát; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; công tác quản lý kiểm soát cửa khẩu và nhiều kế hoạch nghiệp vụ (chuyên án, thế trận bí mật, tấn công chính trị, giải quyết điểm nóng, chống gây rối, bạo loạn…). Qua tổng kết, đã bổ sung, điều chỉnh biện pháp nghiệp vụ cơ bản, phương châm, nguyên tắc trong chỉ đạo đấu tranh chống kẻ địch và tội phạm.

Ông đề xuất với Đảng ủy ra Nghị quyết 29, tăng cường lãnh đạo công tác trinh sát và xây dựng lực lượng Trinh sát biên phòng trong tình hình mới. Với những chủ trương sát thực, đã tạo sự chuyển biến tích cực, cơ bản đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Ông đã cùng Bộ tư lệnh tham mưu cho Bộ Quốc phòng, cho Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp mở rộng cơ sở đào tạo, huấn luyện (Đại học biên phòng, Trung học biên phòng, Trung học huấn luyện chó nghiệp vụ); xây dựng Sở Chỉ huy Bộ tư lệnh, Sở Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành, đồn, trạm biên phòng; hệ thống đường tuần tra biên giới; một số chính sách ưu đãi cho biên giới và lực lượng bảo vệ biên giới... tạo tiền đề, cơ sở vật chất, tinh thần cho toàn lực lượng.

Với cương vị chỉ huy, đặc biệt cương vị Tư lệnh, Phó bí thư Đảng ủy, ông luôn tôn trọng và chấp hành nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Tư lệnh với Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh với các Phó tư lệnh; quan tâm xây dựng, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng ủy, Bộ tư lệnh. Khi có những vấn đề còn vướng mắc, ông chủ động trao đổi, giải quyết với thái độ thẳng thắn, chân tình, mềm mỏng, bao dung, thấu tình đạt lý; đặt lợi ích tập thể, của lực lượng trên lợi ích cá nhân, chăm lo cho đơn vị, tạo được sự đồng thuận, tin tưởng, phấn khởi của cán bộ, chiến sĩ.

Trong công tác xây dựng lực lượng, phải nói đến vấn đề ông cùng tập thể Đảng ủy, Bộ tư lệnh vượt qua khó khăn để thực hiện nghiêm Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, giữ ổn định tổ chức lực lượng.

Ông tâm sự: Trải qua ba mươi sáu năm kể từ ngày thành lập (1959-1995), lực lượng Bộ đội Biên phòng đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tổ chức không ổn định. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh qua các thời kỳ đều trăn trở, chăm lo xây dựng lực lượng, đặc biệt Đảng ủy khóa X (1991-1996) đã chủ động tham mưu, đề xuất cho Bộ Chính trị, Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Nghị quyết số 11/NQ-TW, ngày 8-8-1995 về "Xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới", chuyển Bộ đội Biên phòng từ Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) sang Bộ Quốc phòng. Đây là Nghị quyết toàn diện, đầy đủ nhất về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng, phù hợp với yêu cầu xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Nghị quyết 11 là tổng kết công sức, trí tuệ, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý Nhà nước đối với công tác biên phòng và xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng, đã tạo được sự tin tưởng, phấn khởi trong toàn lực lượng tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao.

Rất tiếc, chỉ sau 2 năm thực hiện, lại xuất hiện quan điểm, nhận thức khác nhau về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Bộ đội Biên phòng. Một số quân khu và bộ phận cơ quan Bộ Quốc phòng đề nghị chuyển Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố về Quân khu, được lãnh đạo Bộ đồng ý, chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu, đề xuất phương án.

Tổng cục An ninh (Bộ Công an) kiến nghị chuyển nhiệm vụ kiểm soát cửa khẩu, cảng biển của Bộ đội Biên phòng về Bộ Công an, được lãnh đạo Bộ Công an gửi tờ trình Chính phủ. Những quan điểm trên trái với Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, lặp lại những sai lầm trước đây, đã phải sửa, tác động lớn đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng.

Trước tình hình trên, Đảng ủy, Bộ tư lệnh đã tổ chức Hội nghị Đảng ủy mở rộng, tranh thủ ý kiến của các cán bộ lão thành nguyên là Thủ trưởng Bộ tư lệnh qua các thời kỳ. Hội nghị thống nhất cho rằng: Sự việc trên là nghiêm trọng, tạo áp lực và khó khăn lớn đối với lực lượng, nếu được thực hiện thì hậu quả khó lường.

Nguyên nhân dẫn đến tình hình nghiêm trọng trên xuất phát từ nhận thức. Kiến nghị của một số cán bộ cấp cao (Quân khu, Tổng cục), và cơ quan cấp Bộ, nhưng do ít có điều kiện tiếp cận công tác biên phòng, nghiên cứu Nghị quyết 11 không sâu, không loại trừ có tư tưởng cục bộ, "lợi ích nhóm".

Vì vậy, thái độ phải bình tĩnh, vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự đúng đắn, phù hợp của Nghị quyết 11. Lãnh đạo toàn lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, giữ nghiêm kỷ luật, không để sơ hở. Phương pháp tốt nhất là tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo tổng kết thực hiện Nghị quyết 11, đề xuất Chính phủ tổ chức khảo sát việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát xuất, nhập cảnh ở cửa khẩu, cảng biển của các đồn Biên phòng.

Bộ tư lệnh chuẩn bị tốt báo cáo, cung cấp những thông tin cốt lõi, luận cứ khoa học, thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức của lực lượng nòng cốt, chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia đến các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Tỉnh ủy, Thành ủy có biên giới, phục vụ tốt cho nhiệm vụ tổng kết và khảo sát.

Bộ tư lệnh đã tổ chức triển khai thực hiện chủ trương của Đảng ủy nghiêm túc, tích cực, với tinh thần trách nhiệm cao. Sau khi Ban Bí thư Trung ương giao cho Đảng ủy Quân sự Trung ương có hướng dẫn tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị từ cơ sở với 43 tỉnh, thành có biên giới và các bộ, ngành Trung ương có liên quan; giao Ban Nội chính Trung ương chủ trì thành lập Đoàn khảo sát gồm các bộ, ngành: Công an, Quốc phòng, Giao thông, Lao động và Thương binh xã hội, Tổng cục Hải quan, Du lịch, Bộ đội Biên phòng, Nội chính... khảo sát 12 đồn cửa khẩu, cảng biển trên 4 tuyến biên giới. Ông đã cùng đồng chí Bí thư Đảng ủy chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chuẩn bị tốt nội dung, tài liệu, phân công cán bộ, hướng dẫn cơ quan, đơn vị làm tốt công tác tham mưu cho Ban Nội chính Trung ương, cung cấp thông tin cần thiết đến các đồng chí lãnh đạo, phục vụ tốt cho nhiệm vụ khảo sát tình hình biên giới, cửa khẩu và tổng kết thực hiện Nghị quyết 11 từ cơ sở.

Theo sự phân công, ông trực tiếp chỉ đạo và tham gia Đoàn khảo sát của Ban Nội chính Trung ương (1998), dự tổng kết Nghị quyết 11 ở một số tỉnh, thành, quân khu (1999); Đại diện cho lực lượng dự Hội nghị tổng kết khảo sát ở cấp Trung ương và đặc biệt ngày 28-10-2004 Bộ Chính trị nghe Đảng ủy Quân sự Trung ương báo cáo kết quả việc tổng kết Nghị quyết 11, được tham dự các Hội nghị, thay mặt Đảng ủy, Bộ tư lệnh, ông đã báo cáo thực trạng tình hình, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới, những cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ, tính chất công tác, hệ thống tổ chức của lực lượng Bộ đội Biên phòng; tâm tư, tình cảm, khó khăn, gian khổ, hy sinh của cán bộ, chiến sĩ mỗi khi tổ chức không ổn định góp phần khẳng định sự đúng đắn của Nghị quyết 11, và tạo sự đồng tình ủng hộ của đại biểu.

Kết quả khảo sát của Ban Nội chính Trung ương, tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chinh trị từ cơ sở 43 tỉnh ủy, thành ủy có biên giới và các bộ, ban ngành ở Trung ương đều khẳng định: Nghị quyết 11 là đúng đắn, Bộ đội Biên phòng, lực lượng nòng cốt chuyên trách đã phát huy truyền thống, nêu cao bản lĩnh chính trị, vững vàng nơi tuyến đầu biên giới, gắn bó máu thịt với nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đặc biệt, tại Hội nghị Bộ Chính trị, ông rất xúc động và ấn tượng với ý kiến của đồng chí Phan Văn Khải, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ: "Trong tình hình đổi mới, mở cửa đất nước, giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bộ đội Biên phòng phải được củng cố, ổn định và phát triển. Giữ nguyên chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức. Nếu cần thiết có thể tăng thêm biên chế".

Và ý kiến đồng chí Trần Đình Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, còn nhấn mạnh: "Bộ đội Biên phòng không những là quân chủng, mà là quân chủng đặc biệt" ông thầm nghĩ Đảng, Nhà nước đánh giá đúng vị trí, vai trò lực lượng (quân chủng) đã có hàng vạn cán bộ Biên phòng không bị thiệt thòi. Ngày 22-12-2004, Bộ Chính trị ra thông báo 165/TB-VPTW kết luận: Giữ nguyên chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức Bộ đội Biên phòng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11. Từ đó, Đảng, Chính phủ, Quân đội quan tâm hơn trong lãnh đạo xây dựng và đảm bảo cho Bộ đội Biên phòng.

Là người chứng kiến, trực tiếp tham gia từ đầu đến cuối (1997- 2004) ông thấm thía những khó khăn, phức tạp, thấu hiểu những gian khổ, hy sinh của lực lượng phải gánh chịu. Kết quả tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng quyết định giữ ổn định tổ chức theo Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, tạo tiền đề cho lực lượng phát triển, là công sức trí tuệ của tập thể Đảng ủy, Bộ tư lệnh đã có chủ trương sát đúng, đánh giá đúng tình hình, xác định rõ nguyên nhân và có thái độ, phương pháp phù hợp.

Kết quả trên phải nói tới vai trò chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Bộ tư lệnh và chỉ huy các đơn vị, trong đó có vai trò của Tư lệnh, Phó tư lệnh Chính trị trong tổ chức chỉ huy, chỉ đạo toàn lực lượng vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, trong bối cảnh tình hình mới nóng bỏng, đồng thời làm tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng - tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân đội tổng kết, giữ ổn định tổ chức lực lượng theo Nghị quyết 11 Bộ Chính trị; xây dựng thế trận Biên phòng toàn dân, xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh toàn diện.

Kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (3-3-1959/3-3-2004), toàn lực lượng được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng.

Trong niềm vui chung, ông tự hào đã góp công sức nhỏ bé của mình trong đó. Trong buổi ông bàn giao chức trách Tư lệnh cho người kế nhiệm, ông trầm ngâm suy nghĩ, rồi xúc động phát biểu: "Chỉ còn vài ngày nữa là lực lượng kỷ niệm 46 năm truyền thống, và tôi tròn 45 năm tuổi quân, 40 năm tuổi Đảng. Tôi đã đồng hành cùng lực lượng, trải qua các cương vị, trên các lĩnh vực công tác, chiến đấu khác nhau. Tôi luôn phát huy truyền thống của quê hương, của lực lượng, vượt qua khó khăn, thách thức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc, vì sự tồn tại, ổn định và phát triển của lực lượng. Với lòng tự hào, biết ơn Đảng, Công an, Quân đội và đặc biệt là lực lượng Bộ đội Biên phòng, đã đào tạo, giúp đỡ tôi được trưởng thành như ngày hôm nay. Trên cương vị người chủ trì, vấn đề cốt yếu nhất là tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quy chế làm việc của người chỉ huy, điều hành công việc dân chủ, khách quan, công tâm. Người chủ trì phải là trung tâm đoàn kết thống nhất, tâm huyết, trách nhiệm với lực lượng, vì lợi ích chung, phát huy trí tuệ tập thể, tôn trọng sáng kiến của cán bộ, chiến sĩ. Người chủ trì phải năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám chấp nhận hy sinh. Là tư lệnh phải dứt khoát, quyết đoán, nhưng sống nhân ái, khoan dung, quan tâm đời sống cán bộ, chiến sĩ như những người thân của mình. Những kinh nghiệm ấy được rút ra từ thực tiễn chiến đấu, xây dựng ở từng vị trí công tác, đã giúp tôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao".

Tôi và Thiếu tướng Trịnh Ngọc Huyền cứ nhẩn nha trong từng câu chuyện cuộc đời binh nghiệp của ông. Có lúc ông sôi nổi, hào hứng, có lúc lại trầm lắng suy tư... Bà Thắng, vợ ông mang cà phê ra mời: "Hai anh em uống cà phê cho đỡ căng thẳng, viết lách gì tính sau". Tôi nhìn bà Thắng, rồi nhìn ông. Tôi thấy ông là người hạnh phúc, khi bên ông có người vợ đảm đang và tinh tế.

Như đoán được ý của tôi, ông nhẩn nha: "29 tuổi mình lấy vợ". Tôi cười:

- Đẹp trai vậy, sao anh lấy vợ muộn thế? Có phải vì công việc?

- Tiện vui, mình kể ông nghe - ông nói.

(Bà Thắng nhìn ông mỉm cười, rồi nhẹ nhàng lui về phía sau, để hai anh em nói chuyện. Từ khóe mắt của bà, tôi đọc được niềm hạnh phúc của người vợ thương chồng).

Nói chuyện tình yêu hạnh phúc, ông Huyền như trẻ ra: "Thời đó mình cao to, nước da trắng hồng như con gái, có tới vài mối tình mình yêu và bị yêu. Trong thâm tâm, biểu tượng tình yêu của mình muốn có vợ là giáo viên hoặc nghề y nó phù hợp với lính, để có điều kiện chăm sóc con cái. Vợ mình bây giờ là người cùng cơ quan với vợ anh cán bộ trong Bộ tư lệnh, nên họ giới thiệu. Hình như vợ chồng cũng có duyên số, gặp nhau một lần là chúng mình yêu say đắm, rồi nên vợ nên chồng…".

Qua lời kể của ông, bà Thắng vợ ông, vốn là cán bộ ngành lương thực, cũng thuộc diện hoa khôi đất Hà thành, nết na, thùy mị. Cho đến bây giờ đã là bà nội, bà ngoại nhưng chất thanh lịch, dịu dàng của người Tràng An vẫn không lẫn vào đâu được. Cuộc đời binh nghiệp của ông có được như hôm nay, đều có sự sẻ chia, đồng cam cộng khổ của bà. Bà đã nhận về mình vất vả, giúp ông nuôi dạy, dìu dắt con cái trưởng thành.

Con trai, con gái đều tiếp bước ông trong lực lượng vũ trang. Cháu nội đích tôn của ông năm 2013 tốt nghiệp Học viện Biên phòng. Thế là gia đình ông có 3 đời phục vụ trong lực lượng Bộ đội Biên phòng. Về nghỉ hưu, nhưng ông vẫn nặng lòng với lực lượng, ông vẫn đảm nhiệm vai trò Trưởng ban Liên lạc truyền thống Bộ đội Biên phòng khu vực Hà Nội. Ông tâm sự, 45 năm gắn bó với lực lượng Bộ đội Biên phòng, có thăng trầm, vinh quang và sự nghiệp, nhưng ông vẫn thấy như còn mắc nợ với lực lượng và quê hương "Đồng Tân-Khu Cháy" anh hùng...

Kết thúc câu chuyện về chân dung vị Tướng, tôi xin phép ra về, ông bà tiễn tôi ra sân, nắng trưa mùa thu trải vàng khắp phố.

BÙI GIANG LONG

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/tuong-linh-viet-nam/thieu-tuong-trinh-ngoc-huyen-nguoi-con-cua-que-huong-khu-chay-anh-hung-781177