Thơ Thiền Việt Nam (Kỳ 16): Sự sống và cái chết dưới con mắt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch để lại nhiều tiếc thương trong lòng công chúng. Không chỉ có những cống hiến cho việc kêu gọi hòa bình, đưa Phật giáo Việt Nam vươn ra thế giới, sư ông Làng Mai còn có nhiều đóng góp cho văn học.
LTS: Từ góc nhìn của thiền nhân, thơ thiền cho chúng ta những trải nghiệm thú vị về tự nhiên, con người và xã hội cùng thế giới nội tâm của các bậc giác ngộ. Thơ thiền như một cầu nối giữa bậc giác ngộ, đưa tâm ta trở về hướng thiện, nhận thức thực tại để trân trọng và để biết sống có ý nghĩa hơn trong từng phút giây.
Dòng thơ thiền đã được người tiếp nối và phát triển từ những thành tựu của lịch sự và hiện đại. Nổi bật trong số đó là bài thơ “Sinh Tử” đã khiến nhiều người tỉnh thức.
Có gì trong thơ thiền của sư ông Làng Mai
Thiền sư Thích Nhất Hạnh có nhiều tập thơ đã được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng như tuyển tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt (NXB.Lá Bối, Walnut Creek, California, 1996) được ấn hành, ông đã có bảy tập thơ được chuyển ngữ: Vietnam Poems (Unicorn Press, Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1967); The Cry of Vietnam (Unicorn Press, Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1968); Le Témoin reste (Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Paris xuất bản, Pháp, 1970); Zen Poems (Unicorn Press, Greensboro, Hoa Kỳ,1976); De Schreeuwvan Vietnam (Uitgeverij Ten Have, Baarn, Hà Lan, 1995); Call me by my true name (Parallax, San Francisco, Hoa Kỳ, 1995); En passant le pont (La Boi Editeur, Walnut Creek, California, 2002)1.
40 năm sau ngày hòa bình và 10 năm sau chuyến trở về nước lần đầu của tác giả, thơ Nhất Hạnh mới chính thức trở lại với đời sống văn học trong nước qua trọn bộ bốn tập gồm: Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt, Tiếng đập cánh loài chim lớn, Truyền đăng tục diệm, Thơ học trò”.
“Là sáng tạo của một thiền sư, thơ Nhất Hạnh không nằm ngoài truyền thống thơ Thiền Việt Nam khởi đi từ thời Lý – Trần với Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Mãn Giác… Những công trình khảo cứu của ông (Việt Nam Phật giáo sử luận, Thả một bè lau…) cho thấy một trí huệ sâu sắc và uyên áo về truyền thống Thiền học trong văn chương cổ điển Việt Nam. Đối với thơ hiện đại, ông thật tinh nhạy khi chọn ra để bình giải những câu thơ mang đẫm chất Thiền vị của Quách Thoại, Trụ Vũ… Và với tư chất thi sĩ, cảm hứng Thiền học là một nguồn cảm hứng lớn của thơ ông”, GS Huỳnh Như Phương từng viết về thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Giáo sư cũng cho rằng, nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ đi tìm chất Thiền trong những bài thơ thuần khiết đó. Bởi một trong những nét độc đáo của thơ Nhất Hạnh là chất Thiền hòa kết nhuần nhị với chất Đời. Nếu đạo Phật đi vào cuộc đời là hành trình xuyên suốt của tư tưởng Nhất Hạnh, thì thơ Thiền rút từ tinh chất của đời sống và trở về với đời sống là một hệ quả tất yếu. Nhất Hạnh nhiều lần dạy chúng ta tập thở như một phương pháp trị liệu (Thở vào, tâm tĩnh lặng/ Thở ra, miệng mỉm cười…): thơ ông là hơi thở tại thế mà cũng là hơi thở tự thiền môn.
Nói thơ Thiền gắn liền với đời sống như trên cũng là cách nói sách vở, như muốn chứng minh cho một nguyên lý văn học: năng tri không tách rời sở tri. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có những bài thơ vượt lên trên cả năng tri và sở tri, khi sự chưng cất đạt đến độ viên mãn thành những khái quát nghệ thuật mà không phải là minh họa cho Phật học.
Một dẫn chứng tiêu biểu là bài thơ “Đề Thiền Duyệt thất” ông gửi lại cho Hòa thượng Thanh Từ trước ngày giã từ Phương Bối Am: “Gối nhẹ mây đầu núi/ Nghe gió thoảng hương trà/ Thiền Duyệt tâm bất động/ Rừng cây dâng hương hoa/ Một sáng ta thức dậy/ Sương lam phủ mái nhà/ Hồn nhiên cười tiễn biệt/ Chim chóc vang lời ca/ Đời đi về muôn lối/ Quan san mộng hải hà/ Chút lửa hồng bếp cũ/ Ấm áp bóng chiều sa/ Đời vô thường vô ngã/ Người khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin còn gửi gắm/ Ta vui lòng đi xa/ Thế sự như đại mộng/ Quên tuế nguyệt ta đà/ Tan biến dòng sinh tử:/ Duy còn Ngươi với Ta”.
“Thiền sư Thích Nhất Hạnh bắt đầu làm thơ khi thi ca Việt Nam có sự chuyển biến về thi pháp để tìm cách thay đổi hình thức của Thơ Mới đã dần cạn nguồn sinh lực. Ông vẫn làm thơ lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ, thơ vắt dòng, nhưng tỷ lệ thơ tự do ngày càng tăng. Ông đưa ngôn ngữ Phật học vào thơ, làm thơ văn xuôi, thơ triết lý”, GS Huỳnh Như Phương đưa ra những lời nhận định “gan ruột” về thơ thiền của ngài Thích Nhất Hạnh.
Chết không phải là mất đi
Trong những bài pháp thoại, những lời nhắn nhủ, trong những quyển sách của mình, Sư ông Làng Mai nhiều lần nói về cái chết bằng con mắt bình thản và minh triết. Cái chết không phải là sự mất đi, cái chết cũng là một phần của sự sống... Và điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Sinh tử” của Ngài.
Bài thơ có nội dung như sau:
“Sinh sinh, sinh tử sinh
Tử sinh sinh tử sinh
Tử sinh sinh, sinh tử
Tử sinh tử, sinh sinh”
Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kể lại rằng, bài thơ này được viết trong một buổi họp giữa các nhà tôn giáo về chuyện “sống chung hòa bình”. Hội nghị này được tổ chức năm 1974 tại Tích Lan. Trong suốt ba ngày đầu của hội nghị thầy không mở miệng phát biểu một lời nào, vì các đại biểu nói lý thuyết nhiều quá mà không chịu đề cập đến những vấn đề thực tế. Các nhà lãnh tụ tôn giáo, nhất là các “giáo sư thần học” phí rất nhiều thì giờ để nói về cái ngã của tôn giáo mình. Luôn ba ngày đêm ngồi nghe chán cả lổ tai, thầy ngồi làm thơ. Đây là một trong những bài thơ làm tại phòng hội nghị.
Bài thơ có thể được tạm hiểu thông qua các chữ sinh tử trong bài được phân phối như sau: Từ bao nhiêu đời rồi (sinh sinh) sinh tử đã phát sinh (sinh tử sinh). Sinh tử này (tử sinh) kéo theo sự phát sinh (sinh) của sinh tử khác (tử sinh)
Khi quan niệm về sinh tử phát sinh (tử sinh sinh) thì đó là sinh tử (sinh tử). Và khi quan niệm về sinh tử mất (tử sinh tử) thì sự sống chân thực mới phát sinh ra được (sinh sinh).
Khi còn tại thế, một trong những chủ đề được thiền sư Thích Nhất Hạnh thường nhắc đến, trong các bài pháp thoại lẫn trong nhiều trang viết, chính là Sự Chết.
Với thiền sư, cái chết không đáng sợ, cũng không phải là mất đi. Cái chết chính là tiếp diễn của sự sống, là một phần của sự sống. Đó không chỉ là những lời dạy của Đức Phật từ trong kinh điển, đó còn là sự đúc kết của khoa học, là kinh nghiệm thực tiễn của bậc tu hành đắc đạo. Và, khi người ta đã hiểu rõ về bản chất của cái chết, người ta sẽ sống với một tâm thế bình thản vững vàng, đối mặt với cái chết ung dung, tĩnh tại.
Tại buổi vấn đáp với tăng thân diễn ra vào ngày 24/7/2012 tại xóm Thượng, Làng Mai trong khóa tu mùa hè, khi được hỏi, liệu sự sống có sau khi chết hay không, sư ông Làng Mai đã có một cuộc trả lời sâu sắc về sự sống và cái chết.
Theo sư ông, sự sống luôn có mặt đồng thời với cái chết, không có trước mà cũng không có sau. Sự sống không thể tách rời khỏi cái chết. Nơi nào có sự sống thì nơi đó có cái chết và nơi nào có cái chết thì nơi đó có sự sống.
Thiền sư chỉ ra rằng, các nhà sinh vật học khi quan sát cơ thể con người đã nhận thấy rằng cái sinh và cái diệt diễn ra đồng thời. Như vậy, có nghĩa ra, chúng ta đang sống, tồn tại, cũng là đang chết đi trong từng phút, từng giây, từng sát na mà ta tồn tại.
Thiền sư cũng phân tích: “Nói một cách khoa học thì chúng ta có thể nhìn thấy cái sinh và cái diệt đang diễn ra trong giờ phút hiện tại, đó là sự thật. Bởi vì có những tế bào chết đi nên những tế bào mới được sinh ra và vì có những tế bào được sinh ra nên mới có những tế bào chết đi. Chúng nương vào nhau để biểu hiện.
Do vậy, chúng ta đang kinh nghiệm sự sống và cái chết trong từng giây, từng phút. Đừng nghĩ rằng chúng ta chỉ được sinh ra từ ngày tháng ghi trong giấy khai sinh, đó không phải là ngày sinh thật sự. Trước ngày giờ đó thì chúng ta đã có mặt rồi. Trước khi được thụ thai trong bào thai của mẹ thì chúng ta đã có mặt trong cha và mẹ của chúng ta dưới một hình tướng khác. Vì vậy mà có thể nói không có sinh, không có một điểm bắt đầu thực sự, và cũng không có kết thúc”.