Thời hoàng kim của tình báo điện tử Cộng hòa Dân chủ Đức

Cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ An ninh Quốc gia nước Cộng hòa Dân chủ Đức được coi là một trong những tổ chức tình báo xuất sắc nhất thời bấy giờ. Gần 40.000 điệp viên được tuyển dụng là thành tích rất đáng kể đối với một cơ quan tình báo của quốc gia có dân số 16 triệu người.

Nhiều năm liền, tình báo đối ngoại của Cộng hòa Dân chủ Đức (CHDC) do người bạn lớn của nhân dân Liên Xô, Thượng tướng Markus Wolf, lãnh đạo.

Ông đã thành lập cơ quan của mình từ năm 1951, khi nó vẫn còn trực thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế. Năm 1953, tình báo CHDC Đức trở thành một bộ phận của Bộ An ninh Quốc gia ("Stasi") và chính thức mang tên Cơ quan Tình báo Đối ngoại (Hauptverwaltung Aufklarung- HVA) vào năm 1956, còn Markus Wolf, với cấp bậc thiếu tướng, trở thành người đứng đầu HVA kiêm Thứ trưởng Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức. Ngày 19/1/1956, Markus Wolf tròn 33 tuổi.

Thượng tướng Markus Johannes Wolf.

Thượng tướng Markus Johannes Wolf.

Sau khi chiếm được các tài liệu lưu trữ của Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức ở thành phố Gera, người Mỹ đã phân tích chúng. Trước sự ngạc nhiên của họ, hóa ra, vào những năm 80 của thế kỷ trước, có từ 30-50% thông tin cực kỳ quan trọng được cung cấp bởi Cục III (HA III) (tình báo điện tử) thuộc Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức do Thiếu tướng Horst Mannchen phụ trách.

Vào giữa những năm 80, Cục III có hơn 2.300 nhân viên, 25 chi nhánh tại CHDC Đức, hơn 80 trạm thu tín hiệu ở Tiệp Khắc, Cuba, Aden (Yemen), và tại các đại sứ quán của CHDC Đức ở các nước châu Âu.

Cụ thể, tại văn phòng thường trực ở Bonn, 35 máy ghi âm và 32 máy thu thanh được bố trí trên một diện tích 30m2.

Cục III thường xuyên giám sát 40.000 kênh điện thoại của các quân nhân, nhân viên ngoại giao và tình báo của Cộng hòa Liên bang Đức (CHLB) và NATO, gần như tất cả các kênh điện thoại vệ tinh, telex, fax và kênh truyền tải dữ liệu của CHLB Đức. Các vệ tinh liên lạc như MARISAT, FLEETSATCOM, LEASAT và INTELSAT cũng nằm trong tầm kiểm soát của Cục III.

Thiếu tướng Horst Mannchen.

Thiếu tướng Horst Mannchen.

Cục III luôn luôn “theo kịp thời đại". Các nhân viên của Cục là những người đầu tiên sử dụng "số điện thoại sao chép" của các điện thoại cầm tay, được lập trình để gọi vào các số điện thoại khác, trong đó có các số bí mật. Họ sử dụng chúng để kết nối với các cơ sở dữ liệu và tải xuống thông tin có sẵn. Để không làm lộ công nghệ này, số lần kết nối bị giới hạn ở mức 1.000 lần mỗi năm.

Một thành công lớn của Cục III là kết nối được với tuyến cáp quang nối liền Tây Berlin với CHLB Đức. Chính cáp quang đã được chọn vì việc kết nối với nó được cho là không thể (nhiều người vẫn nghĩ vậy cho đến hôm nay). Tuy nhiên, Cục III không làm phức tạp hóa vấn đề mà đơn giản chỉ nối một nhánh từ bộ khuếch đại trung gian vào cơ sở của mình.

Thông tin thu được đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động "Bảo vệ" (che giấu các điệp viên của CHDC Đức và các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác tại CHLB Đức).

Đối phương cũng đã có những thành công nhất định trong việc đọc thông tin được truyền qua các thiết bị mã hóa liên lạc (nghe lén) ZAS do Liên Xô sản xuất. Trong khuôn khổ chiến dịch "Rainfall", Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) đã trực tiếp giải mã thông tin được truyền qua các thiết bị mã hóa liên lạc T-217 "Elbrus" và T-219 "Yacht".

Đây không phải là bí mật đối với Liên Xô và các nước thuộc Khối Hiệp ước Warsaw. Trong bức thư đề ngày 19/8/1983, Tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang chung Khối hiệp ước Warsaw, Đại tướng Anatoly Gribkov đã thông báo cho người đồng cấp CHDC Đức về việc kẻ thù giải mã thông tin truyền qua các thiết bị T-217/T-219.

Trước đó, thông tin về việc đối phương giải mã các thiết bị T-216, T-217, T-219, T-612, T-617, T-817 đã được KGB chuyển cho Bộ An ninh Quốc gia của CHDC Đức.

Các hệ thống nêu trên được phân loại là thiết bị "có khả năng chống chịu tạm thời", tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là có thể nghe lén trực tiếp.

Đại tướng Anatoly Gribkov.

Đại tướng Anatoly Gribkov.

Vào thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh, CIA đã thành lập một mạng lưới các tổ chức khủng bố với tên gọi chung là "Stay Behind" (SBO). Ban đầu ở Ý, sau đó ở các nước khác của khối NATO, cũng như Thụy Sĩ, Áo, và Phần Lan. Các tổ chức này được gọi là "Gladius" (thanh kiếm), theo tên của chi nhánh Ý được thành lập đầu tiên.

Giám đốc CIA William Colby gọi hoạt động này là "chương trình quan trọng nhất".

Năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Ý Mario Scelba, một tổ chức chống cộng ngầm do Mỹ tài trợ đã được thành lập ở Ý. CIA bắt đầu vận chuyển vũ khí bất hợp pháp tới Ý.

Đây là lần đầu tiên cái gọi là "Vàng của Đế chế thứ ba" bị người Mỹ tịch thu ở Áo được sử dụng. Chiến dịch này được cấp 10 triệu USD. Vì tài sản của Đức không được đăng ký ở đâu, nên đã gặp một số khó khăn nhất định khi đưa chúng vào lưu thông.

Năm 1953, CIA đã mua khu đất hoang Capo Marrargiu ở đảo Sardinia để xây dựng một trại huấn luyện binh sĩ. Hai năm sau, Đại tá quân đội Ý Renzo Roca bắt đầu huấn luyện các binh sĩ tại cơ sở này. Tổng cộng có 622 người đã được huấn luyện.

Cuối năm 1956, công tác tổ chức đã hoàn tất. Đến đầu năm 1960, "Gladius" sở hữu một khối tài sản và trang thiết bị trị giá 1,5 tỷ Lira. Ngân sách hàng năm lên đến 225 triệu Lira.

Đến đầu những năm 80, người Mỹ cũng đã đầu tư vào chương trình này 1,5 tỷ Lira.

Nhiệm vụ của các tổ chức bí mật này là thực hiện các chiến dịch tình báo-phá hoại chống lại quân đội Liên Xô và các nước trong Khối Hiệp ước Warsaw. Các thành viên của tổ chức đã tham gia nhiều cuộc tập trận của lực lượng NATO.

Tuy nhiên, còn có một nhiệm vụ khác, đặc biệt là trong bối cảnh không có "sự chiếm đóng của Liên Xô" - thực hiện các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các thành viên của các đảng cộng sản và cánh tả Tây Âu. Đây là mô hình tiền thân của các đội tử thần ở Mỹ Latinh.

Tuy nhiên, các tổ chức này cũng không ngần ngại sử dụng khủng bố thông thường, kể cả việc liên kết với các tổ chức tân quốc xã. Một ví dụ điển hình là "chiến lược gây căng thẳng" ở Ý nhằm mục đích ngăn chặn việc thành lập một chính phủ liên minh có sự tham gia của những người cộng sản. Chính phủ này dự kiến sẽ được Thủ tướng Aldo Moro công bố tại cuộc họp của quốc hội ngay trước khi ông bị bắt cóc.

Đây là những "kẻ khủng bố kỳ lạ", thông thường, chúng không đưa ra điều kiện gì, không đòi hỏi gì, chỉ đơn giản là giết người.

Ý tưởng của chúng đơn giản nhưng lại rất hiệu quả. Giết người và đổ lỗi cho những người cộng sản và các lực lượng cánh tả khác, nhằm hạ bệ họ và ngăn không cho họ tham gia chính phủ.

Các số liệu chính thức cho thấy, từ ngày 1/1/1969 đến 31/12/1987, đã có 14.591 vụ tấn công khủng bố mang động cơ chính trị xảy ra ở Ý. Những sự kiện này đã cướp đi sinh mạng của 491 người và làm bị thương 1.181 người.

Một thời gian dài, phương Tây đã phủ nhận sự tồn tại của tổ chức này. Phải đến năm 1990, Thủ tướng Ý Giulio Andreotti mới thừa nhận sự tồn tại của "Gladius" và mối quan hệ chặt chẽ của tổ chức này với NATO, CIA và MI6. Lúc bấy giờ, ông mô tả những kẻ đã bắt cóc và giết Thủ tướng Ý Aldo Moro là "quá gần gũi với NATO".

Bắt đầu từ năm 1966 đến cuối thời kỳ tồn tại của nước CHDC Đức, Bộ An ninh Quốc gia tiến hành phát hiện các thành viên của tổ chức khủng bố "Stay Behind".

Thông qua việc dò tín hiệu, đọc các thông tin mã hóa và các phương pháp đặc biệt khác, các điệp viên Đức đã xác định được tên thật và bí danh của các thành viên tổ chức, nơi cư trú, nhà an toàn, và các kênh liên lạc với CIA và Cơ quan Tình báo Liên bang Đức (BND).

Cụ thể, năm 1984, 20 nhóm điệp viên đã bị phát hiện, và năm 1988, con số này là 29. Tần số và công suất máy phát sóng của các điệp viên đã được xác định, các nút liên lạc, bao gồm một điểm dự phòng ở Monzenares (Tây Ban Nha) cũng đã được phát hiện. Đây là nơi đặt trụ sở dự phòng của chính phủ CHLB Đức, được chuẩn bị sẵn để di tản trong trường hợp khẩn cấp.

Giám đốc CIA William Colby.

Giám đốc CIA William Colby.

NATO liên tục cải tiến hệ thống liên lạc mã hóa của tổ chức "Stay Behind". Chẳng hạn, thông qua BND, hãng AEG-Telefunken đã được đặt hàng hệ thống liên lạc "Garpun". 854 đài vô tuyến điện đã được chế tạo với giá trị 130 triệu Mark Đức. Để phục vụ cho nhu cầu của mình, BND đã giữ lại 130-140 thiết bị. Những đài vô tuyến còn lại đã được bán cho các đơn vị của "Stay Behind" ở châu Âu.

Hệ thống "Garpun" cho phép gửi và nhận các bản điện báo được mã hóa với khoảng cách lên tới 6.000 km, nhờ đó kết nối được các chi nhánh khác nhau của "Stay Behind" ở châu Âu và các khu vực chiến sự khác.

Đài vô tuyến FS 5000 hoạt động ở chế độ kỹ thuật số trong dải tần 2 - 29,999 MHz, để truyền tải một thông tin dài 60 ký tự, chỉ mất chưa đầy 1 giây.

Trong giai đoạn từ 1976 đến 1987, khoảng 14.000 thông tin đã được giải mã, trong đó hơn 4.000 thông tin có giá trị tình báo.

Tháng 8/1987, các tài liệu quan trọng của tổ chức "Stay Behind" đã được thay đổi, và việc đọc các bản mật mã tạm thời không thể thực hiện được. Năm 1988, một thông tin được mã hóa bằng khóa giống hệt với khóa của các bản mật mã năm 1986 đã bị chộp. Lỗi này dẫn đến việc phát hiện hệ thống mật mã mới và phục hồi việc giải mã các thông tin của tổ chức "Stay Behind" tại Bộ An ninh quốc gia CHDC Đức.

Việc Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức phát hiện ra tổ chức khủng bố "Stay Behind" là một ví dụ điển hình về công tác lâu dài và tỉ mỉ của các cơ quan tình báo, về phương pháp tiếp cận toàn diện với việc sử dụng tất cả các lực lượng và phương tiện có sẵn, trong đó hoạt động giải mã đóng vai trò then chốt.

Có thể nói thêm rằng trong những năm gần đây, đã xuất hiện những thông tin về sự tồn tại của tổ chức "Gladius-2" với sự tham gia của các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Người đầu tiên thông báo về vấn đề này là cựu nhân viên FBI Sibel Edmonds.

Trần Đình

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/thoi-hoang-kim-cua-tinh-bao-dien-tu-cong-hoa-dan-chu-duc-i760412/