Thời trang có thể trở nên 'xanh hơn' như thế nào, bất chấp tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu?
Tạp chí Newsweek vừa đăng ý kiến của Lewis Perkins, Chủ tịch Viện nghiên cứu tác động của ngành may mặc, theo đó: Bất chấp những lời kêu gọi mạnh mẽ nhằm làm cho ngành thời trang bền vững hơn và những cam kết đầy tham vọng từ các thương hiệu, tác động của ngành này đến khí hậu vừa đạt mức cao kỷ lục, tăng hơn 7% so với năm trước.

Công nhân trong một xưởng may ở Tongi, ngoại ô Dhaka, Bangladesh. Nguồn: AFP
Sau nhiều năm ngành thời trang duy trì mức tác động môi trường ổn định, thậm chí giảm sút, sự gia tăng đột biến này thực sự là một hồi chuông cảnh tỉnh. Ngành thời trang đã góp đáng kể vào hiện tượng nóng lên toàn cầu, chiếm từ 1,7% đến 8% lượng khí thải toàn cầu, tùy thuộc vào cách đo lường ảnh hưởng "Dấu chân carbon" (được định nghĩa là tổng khối lượng tương đương CO₂ thải ra trực tiếp và gián tiếp từ một hoạt động hoặc tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định) của ngành - dù là chỉ tính riêng sản xuất hay toàn bộ chuỗi cung ứng, từ nguyên liệu thô đến hết vòng đời sản phẩm. Khi ngành này mở rộng, tác động của nó cũng tăng theo, dẫn đến những hậu quả vượt xa chuỗi cung ứng. Lượng khí thải ngày càng tăng này có tác động lan tỏa đến khí hậu, khách hàng và cộng đồng.
Tác động môi trường ngày càng gia tăng của thời trang sẽ làm trầm trọng thêm những biến động khí hậu vốn đang định hình lại mọi khía cạnh của cuộc sống, từ thực phẩm chúng ta ăn, nơi chúng ta sống đến không khí chúng ta hít thở. Nguy cơ gia tăng của các cơn bão cực đoan, nhiệt độ cao nguy hiểm, cháy rừng và các thảm họa khí hậu khác khiến hoạt động sản xuất trở nên khó lường và có khả năng tốn kém hơn. Trái đất nóng lên cũng đồng nghĩa với việc việc tìm nguồn cung ứng các nguyên liệu như cotton và lụa cho quần áo sẽ khó khăn hơn và đắt đỏ hơn.
Cái giá của sự trì trệ là rất lớn, không chỉ tính bằng thiệt hại về môi trường mà còn bằng hàng tỷ đô la năng suất bị mất, chuỗi cung ứng bị gián đoạn và chi phí tài nguyên gia tăng sẽ ảnh hưởng đến ngành công nghiệp nếu chúng ta không hành động. Nói một cách đơn giản, biến đổi khí hậu đồng nghĩa với việc ngành thời trang không còn có thể tiếp tục kinh doanh như trước nữa.
Nhiều quốc gia thiết yếu đối với ngành may mặc - Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam, Pakistan, Indonesia - đang ở tuyến đầu của biến đổi khí hậu, trải qua các đợt nắng nóng, lũ lụt và khan hiếm tài nguyên. Tại những khu vực này, cái giá phải trả cho sự trì trệ là rất lớn, và việc tiếp tục gia tăng lượng khí thải sẽ gây ra thảm họa cho doanh nghiệp, môi trường và con người.
Tuy nhiên, có những đổi mới trong sản xuất và các phương pháp tiết kiệm năng lượng đã được chứng minh mang lại hy vọng, giúp giảm thiểu tác động khí hậu của ngành may mặc, đồng thời giảm chi phí và cải thiện phúc lợi cho người lao động. Ví dụ, máy bơm truyền nhiệt thay vì tạo ra nhiệt. Điều này cho phép các nhà máy cung cấp giải pháp toàn diện: nhiệt lượng cần thiết cho sản xuất và làm mát để đảm bảo an toàn cho người lao động, mà không phát thải khí thải như lò hơi đốt nhiên liệu hóa thạch.
Mặc dù hiệu quả hơn về mặt kinh tế và môi trường so với công nghệ nhiên liệu hóa thạch về lâu dài, nhưng chi phí trả trước cho các giải pháp này hiện có thể là quá cao đối với các nhà sản xuất. Điều này phản ánh cốt lõi của vấn đề trong ngành thời trang: trong khi sản xuất là phần thải ra nhiều khí thải nhất trong quá trình may mặc, các thương hiệu lại nắm giữ nguồn vốn cần thiết để thực sự khử cacbon cho quá trình này.
Để xây dựng một ngành công nghiệp thời trang bền vững, chúng ta cần những hành động quyết đoán và phối hợp, bao gồm việc tập hợp nguồn vốn cho đầu tư tập thể và các thương hiệu hành động theo đúng cam kết, thu hẹp khoảng cách giữa các cam kết công khai về khí hậu và triển khai thực tế. Viện Apparel Impact đang hợp tác với các bên liên quan chủ chốt trong ngành để tập hợp vốn và cùng nhau triển khai các giải pháp như máy bơm nhiệt trên khắp các cơ sở của nhà cung cấp. Khi ngành công nghiệp cùng nhau đầu tư, lĩnh vực này có thể tiến nhanh hơn đến mục tiêu của mình.
Nhìn về tương lai, chúng ta có thể học hỏi từ những thành công trên toàn chuỗi giá trị. Từ năm 2019 đến năm 2024, H&M đã thành công trong việc giảm gần 1/4 lượng khí thải gián tiếp bằng cách đầu tư vào vật liệu tuần hoàn và tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo trong toàn bộ hoạt động. Bên cạnh Bestseller, Tập đoàn H&M đang phát triển một dự án năng lượng gió ngoài khơi tại Bangladesh, một trong những trung tâm cung ứng chính của họ, tạo ra cơ sở hạ tầng cần thiết để giảm thiểu tác động môi trường một cách hiệu quả.
Bên cạnh các thương hiệu, một số động lực hấp dẫn nhất đến từ các nhà cung cấp vật liệu và sản phẩm. Artistic Milliners, đối tác cung cấp của các tập đoàn may mặc lớn như Levi's, gần đây đã đầu tư hơn 100 triệu đô la vào năng lượng tái tạo, bổ sung hơn 100 MW điện gió vào lưới điện quốc gia Pakistan - đủ năng lượng để cung cấp điện cho gần 20.000 hộ gia đình Mỹ trong cả năm. Khoản đầu tư của họ đã tạo ra tác động đáng kinh ngạc, cắt giảm hơn 50% diện tích sử dụng năng lượng dễ đo lường nhất của nhà cung cấp này trong vòng ba năm .
Rõ ràng công nghệ và tham vọng không phải là rào cản: có rất nhiều nhà máy đang khao khát chuyển đổi sang sản xuất xanh và các giải pháp sẵn sàng giúp hiện thực hóa điều này. Tuy nhiên, các nhà cung cấp cần tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, cam kết thương hiệu lâu dài và hỗ trợ kỹ thuật để triển khai các giải pháp này trên quy mô lớn.
Trong tương lai, các thương hiệu, nhà bán lẻ, tổ chức tài chính và nhà sản xuất cần từ bỏ việc coi tính bền vững như một dự án phụ, thay vào đó, hãy hướng đến hành động tập thể, thúc đẩy quá trình ra quyết định trên toàn bộ chuỗi giá trị. Người tiêu dùng cũng có thể ủng hộ thời trang xanh hơn bằng cách tìm kiếm các chứng nhận như bluesign hoặc Tiêu chuẩn Tái chế Toàn cầu.
Với các giải pháp đã được chứng minh, khả thi về mặt thương mại, sẵn sàng mở rộng quy mô và tiềm năng thành công rõ ràng, ngành công nghiệp thời trang có mọi cơ hội để đảo ngược lượng khí thải carbon đang gia tăng. Một điều chắc chắn là: Nếu chúng ta cùng nhau hợp tác, thời trang có thể trở thành động lực mạnh mẽ cho tiến trình biến đổi khí hậu thay vì gây ra rủi ro biến đổi khí hậu.
Nguồn: Newsweek