Thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 vượt mục tiêu đề ra 8,3 triệu tỷ đồng
Thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần giai đoạn 2016-2020 và vượt mục tiêu đề ra (8,3 triệu tỷ đồng). Tổng số miễn, giảm, gia hạn các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, thuê mặt nước khoảng 1,1 triệu tỷ đồng.
Tăng thu, tiếp kiệm chi 1,57 triệu tỷ đồng
Chiều 12/10, Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ 1, nhiệm kỳ 2025-2030 tiến hành thảo luận tại tổ.
Về kết quả phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2020-2025, các đại biểu cho rằng, trong bối cảnh rất nhiều khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta dự kiến đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu giai đoạn 2021-2025, trong đó hoàn thành toàn bộ chỉ tiêu về xã hội; các năm 2024-2025 đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu.
Một số kết quả nổi bật, quy mô GDP Việt Nam tăng từ 346 tỷ USD năm 2020, xếp thứ 37 thế giới, lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; GDP bình quân đầu người gấp 1,4 lần, tăng từ 3.552 USD lên khoảng 5.000 USD, bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình cao.

Thủ tướng tham dự tổ thảo luận số 1.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức khoảng 4%/năm. Thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần giai đoạn 2016-2020 và vượt mục tiêu đề ra (8,3 triệu tỷ đồng). Tổng số miễn, giảm, gia hạn các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, thuê mặt nước khoảng 1,1 triệu tỷ đồng. Tổng số tăng thu, tiết kiệm chi của ngân sách nhà nước khoảng 1,57 triệu tỷ đồng.
Tổng số chi an sinh xã hội (bao gồm các chương trình mục tiêu quốc gia) đạt 1,1 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 17% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025.
Tổng số chi hỗ trợ phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai từ dự phòng ngân sách Trung ương đạt 47,2 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 27% tổng chi dự phòng ngân sách Trung ương. Nợ công giảm từ 44,3% GDP năm 2020 xuống còn khoảng 35% năm 2025
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 17,3 triệu tỷ đồng, tương đương 33,2% GDP. Tổng vốn đầu tư công giai đoạn 5 năm 2021-2025 (bao gồm cả chương trình phục hồi và phát triển KTXH) đạt 3,4 triệu tỷ đồng, tăng 55% so với nhiệm kỳ 2016-2020.
Đến hết năm 2025 sẽ hoàn thành 3.245 km đường bộ cao tốc (vượt mục tiêu 3.000 km) và 1.711 km đường ven biển (vượt mục tiêu 1.700 km theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII); cơ bản hoàn thành Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1; phấn đấu khởi công tuyến đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.
Về phòng, chống đại dịch COVID-19, đã hỗ trợ khoảng 119 nghìn tỷ đồng cho trên 68,4 triệu lượt người lao động và trên 1,4 triệu lượt người sử dụng lao động gặp khó khăn; xuất cấp trên 23,3 nghìn tấn gạo; triển khai hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, trong đó dành khoảng 175,5 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương cho các dự án về kết cấu hạ tầng, y tế, công nghệ thông tin...
Một số chỉ tiêu về xã hội, thu nhập bình quân của người lao động tăng từ 5,5 triệu đồng/tháng năm 2020 lên 8,4 triệu đồng/tháng năm 2025. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm từ 33,1% năm 2020 xuống còn khoảng 25,8% năm 2025; tỷ lệ lao động khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 66,9% lên 74,2%; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 64,5% lên 70%.
Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,2% năm 2020 lên 95,2% năm 2025 (mục tiêu đề ra là trên 95%). Tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,1% năm 2021 xuống còn 1,3% năm 2025. Xuất cấp trên 689,5 nghìn tấn gạo hỗ trợ nhân dân. Hoàn thành mục tiêu cơ bản xóa nhà tạm, nhà dột nát trước thời hạn 5 năm 4 tháng với trên 334.000 căn.
Cả nước đang triển khai xây dựng 633.000 căn nhà ở xã hội, phấn đấu hoàn thành 100.000 căn trong năm 2025. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 64,5% năm 2020 lên 70% năm 2025.
Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 37 bậc, từ xếp hạng 83 năm 2020 lên xếp hạng 46 năm 2025. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2025 xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Về sắp xếp tổ chức bộ máy, triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy của Chính phủ, giảm 8 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, còn 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ (tương đương giảm 32%). Số đơn vị hành chính cấp tỉnh giảm từ 63 còn 34; đơn vị hành chính cấp huyện chấm dứt hoạt động; số đơn vị hành chính cấp xã giảm từ 10.035 xuống còn 3.321 (tương đương giảm 67%).
Tổng số biên chế khối hành chính nhà nước giảm 145.000 công chức, viên chức; chi thường xuyên giảm 39 nghìn tỷ đồng/năm.
Về xử lý các dự án, doanh nghiệp yếu kém, tồn đọng kéo dài, đã xây dựng, trình Bộ Chính trị cho ý kiến và triển khai thực hiện phương án xử lý 5 ngân hàng yếu kém, 12 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả và các dự án tồn đọng kéo dài, gây lãng phí nguồn lực; đang rà soát, đề xuất tháo gỡ vướng mắc cho khoảng gần 3.000 dự án với tổng vốn gần 5,9 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 235 tỷ USD) và tổng quy mô sử dụng đất khoảng 347 nghìn ha.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 nước, trong đó có quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 38 nước, bao gồm 5/5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, 17/20 nước G20 và toàn bộ các nước ASEAN.
Đổi mới khoa học công nghệ là con đường ngắn nhất
Phát biểu thảo luận tại tổ, Thủ tướng nhấn mạnh, nếu không tiếp tục đổi mới thì chúng ta sẽ không thể phát triển được, không thể "tiến xa ra biển lớn, đi sâu vào lòng đất, bay cao lên vũ trụ". Do đó phải đổi mới, đột phá mạnh mẽ hơn nữa, trong đó khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nền tảng phát triển, là con đường ngắn nhất, nhanh nhất. "Nên tư duy phát triển, phương pháp luận, cách tiếp cận để giải quyết vấn đề thực tiễn phải đổi mới", Thủ tướng nói.
Thủ tướng nhắc tới khẩu hiệu "Đổi mới hay là chết" tại thời điểm Đại hội 6 và cho rằng, điều này nghĩa là chúng ta phải vượt qua chính mình, vượt qua giới hạn của bản thân mình, thì mới có đổi mới, mới phát triển được.
Phân tích sâu hơn về vấn đề huy động nguồn lực, người đứng đầu Chính phủ khẳng định phải tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thể chế để khơi thông, huy động nguồn lực, đưa thể chế từ điểm nghẽn thành lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Theo Thủ tướng, thu hút vốn FDI đang là một điểm sáng, nhưng nguồn lực trong xã hội còn rất lớn, điều quan trọng là phải biết cách huy động mạnh hơn nữa tổng đầu tư toàn xã hội, bằng các biện pháp đồng bộ, hiệu quả, như tháo gỡ vướng mắc thể chế; phát triển thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, phát triển trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm thương mại tự do… Muốn vậy, cơ chế phải rất thông thoáng, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhưng đồng thời phải bảo vệ được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Một biện pháp quan trọng khác được Thủ tướng nhắc tới là mạnh dạn giao các doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư, xây dựng các công trình hạ tầng lớn như các công trình thể thao quy mô quốc tế, đủ sức phục vụ Olympic, hay các sân bay quốc tế… Thực tế cho thấy khu vực tư nhân làm các công trình này sẽ nhanh hơn, hiện đại hơn và với chi phí tiết kiệm hơn, trong khi không phải sử dụng nguồn ngân sách nhà nước.