Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Du lịch y tế - Cơ hội để Việt Nam bứt phá

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để khẳng định vị thế thông qua một lĩnh vực giàu tiềm năng: du lịch y tế.

Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã xác định rõ: "Phát triển các lĩnh vực có lợi thế, gắn hội nhập kinh tế với hội nhập khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế… nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo dựng hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế".

Trên tinh thần đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 153/NQ-CP ngày ngày 31/5/2025 về chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW, trong đó nhấn mạnh: Xây dựng và triển khai Đề án phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu, trong những lĩnh vực nước ta có thể mạnh, ngang tầm quốc tế.

Việc phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe kết hợp du lịch là một hướng đi bền vững, phù hợp với nhu cầu toàn cầu hậu đại dịch, và là "cánh cửa mềm" cho hội nhập quốc tế thực chất, hiệu quả.

Liên quan đến nội dung này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên.

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên.

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên.

Nhiều thế mạnh du lịch y tế của Việt Nam

- Thưa Thứ trưởng, hiện nay Bộ Y tế nhìn nhận tiềm năng phát triển du lịch y tế của Việt Nam như thế nào trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Bộ Y tế nhận định du lịch y tế là một trong những lĩnh vực giàu tiềm năng phát triển của Việt Nam. Đây không chỉ là cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế trong nước mà còn tạo thêm động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.

Trên thế giới, du lịch y tế – hay còn gọi là du lịch sức khỏe – đã trở thành một xu hướng tất yếu trong những thập kỷ gần đây. Sự tăng trưởng toàn cầu về kinh tế, nhu cầu ngày càng lớn của bệnh nhân, chuyên gia y tế, sự phát triển của công nghệ cùng với dòng vốn đầu tư và các chế độ bảo hiểm vượt biên giới đã làm thay đổi mạnh mẽ mô hình tiêu thụ và sản xuất dịch vụ y tế.

Sự dịch chuyển hàng hóa và dịch vụ dưới sự bảo trợ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ đã đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ y tế, kéo theo sự phát triển nhanh chóng của loại hình du lịch y tế.

Thực tế cho thấy chăm sóc sức khỏe vốn là một ngành dịch vụ, và ngày nay đã trở thành lĩnh vực có thể trao đổi, mua bán toàn cầu. Một yếu tố mới quan trọng trong thương mại dịch vụ y tế chính là hiện tượng bệnh nhân di chuyển sang quốc gia khác để được điều trị. Điều này đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của loại hình du lịch sức khỏe.

Du lịch sức khỏe được hiểu là khi người dân lựa chọn đi ra nước ngoài để sử dụng các dịch vụ khám, chữa bệnh, làm đẹp hoặc các sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Hình thức này có thể là một chuyến đi ngắn hạn để khám và điều trị, hoặc cũng có thể là một hành trình dài nhằm tận hưởng và sử dụng toàn diện các dịch vụ y tế.

Nếu như trước đây, du lịch y tế chủ yếu diễn ra theo chiều ngược, từ các nước kém phát triển sang các nước phát triển, thì từ thế kỷ 21, xu hướng đã thay đổi. Ngày càng nhiều du khách và bệnh nhân từ các quốc gia giàu có, phát triển hơn di chuyển đến các nước có thu nhập thấp hoặc trung bình để tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi phí hợp lý, nhờ sự hỗ trợ của các chuyến bay giá rẻ và thông tin rộng rãi trên internet.

Chính sự thay đổi này đã đưa thị trường du lịch y tế từ các quốc gia OECD sang những nước như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và cả Việt Nam.

Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) dự báo du lịch y tế sẽ trở thành một trong sáu xu hướng phát triển mạnh trong tương lai, cùng với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch sáng tạo, du lịch thông minh và du lịch có trách nhiệm.

Ứng dụng robot trong phẫu thuật ung thư tại Bệnh viện K.

Ứng dụng robot trong phẫu thuật ung thư tại Bệnh viện K.

Viện Sức khỏe Toàn cầu cũng khẳng định đây là một trong những phân khúc tăng trưởng nhanh nhất của ngành du lịch toàn cầu, với quy mô thị trường từ 639 tỷ USD năm 2017 dự kiến tăng lên 919 tỷ USD vào năm 2022 và tiếp tục bứt phá mạnh trong những năm tới.

Tại Việt Nam, mặc dù du lịch y tế vẫn còn là lĩnh vực khá mới so với nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay các nước ASEAN như Thái Lan, Singapore, nhưng những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Việt Nam hiện thu về khoảng 1 tỷ USD mỗi năm từ khách quốc tế đến khám, chữa bệnh.

Riêng tại TP Hồ Chí Minh, 30 – 40% khách ngoài thành phố và ngoài nước đến khám, chữa bệnh, trong đó chủ yếu là người Campuchia, Lào, cùng với sự gia tăng khách từ Mỹ, Úc, Canada, Nhật Bản và cộng đồng kiều bào. Những con số này cho thấy tiềm năng khai thác du lịch y tế ở nước ta là rất lớn.

- Thứ trưởng có thể nói rõ hơn về những lợi thế để phát triển du lịch y tế tại Việt Nam?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Thứ nhất, về trình độ chuyên môn, nhiều bệnh viện tuyến trung ương đã làm chủ các kỹ thuật y khoa phức tạp như ghép tạng, can thiệp tim mạch, điều trị ung thư, phẫu thuật nội soi tiên tiến, thụ tinh trong ống nghiệm với tỷ lệ thành công cao ngang tầm khu vực.

Thứ hai, về chi phí, dịch vụ y tế tại Việt Nam chỉ bằng khoảng 30–50% so với các quốc gia như Singapore hay Thái Lan, trong khi chất lượng đã tiệm cận chuẩn quốc tế, tạo lợi thế cạnh tranh thu hút bệnh nhân từ các nước phát triển và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ ba, Việt Nam có thế mạnh trong các dịch vụ phục hồi chức năng, y học cổ truyền, vật lý trị liệu kết hợp với nguồn dược liệu phong phú. Đây là xu hướng chăm sóc sức khỏe toàn diện, có bản sắc riêng mà nhiều nước trong khu vực không có được.

Việt Nam có thế mạnh trong các dịch vụ phục hồi chức năng, y học cổ truyền, vật lý trị liệu kết hợp với nguồn dược liệu phong phú. Đây là xu hướng chăm sóc sức khỏe toàn diện, có bản sắc riêng mà nhiều nước trong khu vực không có được.

Việt Nam có thế mạnh trong các dịch vụ phục hồi chức năng, y học cổ truyền, vật lý trị liệu kết hợp với nguồn dược liệu phong phú. Đây là xu hướng chăm sóc sức khỏe toàn diện, có bản sắc riêng mà nhiều nước trong khu vực không có được.

Thứ tư, về hạ tầng, nhiều bệnh viện đã được đầu tư đồng bộ, hiện đại, có trung tâm kỹ thuật cao, có khả năng tiếp nhận bệnh nhân quốc tế.

Thứ năm, về nhân lực, đội ngũ y bác sĩ Việt Nam giàu kinh nghiệm, nhiều người được đào tạo tại các quốc gia phát triển, có khả năng ngoại ngữ, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ bệnh nhân quốc tế.

Thứ sáu, song song với đó, thế mạnh du lịch nghỉ dưỡng của Việt Nam là điểm cộng quan trọng. Với bờ biển dài, khí hậu đa dạng, cảnh quan đẹp, văn hóa và ẩm thực phong phú, Việt Nam có thể xây dựng các gói "du lịch nghỉ dưỡng kết hợp chăm sóc sức khỏe" mà ít quốc gia có được sự đa dạng tương tự. Thực tế cho thấy nhiều khu nghỉ dưỡng cao cấp, khách sạn 5 sao tại Việt Nam đã dành không gian phát triển hệ thống tiện ích chăm sóc sức khỏe đồng bộ.

Một số công ty lữ hành cũng đã bước đầu xây dựng sản phẩm du lịch sức khỏe chuyên biệt như tour thiền – yoga, tour giảm cân, thải độc với sự đồng hành của chuyên gia, huấn luyện viên. Tuy nhiên, loại hình này ở Việt Nam vẫn chưa phát triển bài bản, phần lớn chỉ do các đơn vị nghỉ dưỡng cung cấp tại chỗ, chưa có hệ thống kiểm định, thẩm định chất lượng rõ ràng.

Bên cạnh đó, du lịch y tế đòi hỏi đội ngũ nhân lực phục vụ chuyên biệt và chuyên nghiệp hơn. Việt Nam cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng phù hợp, đồng thời khắc phục những hạn chế hiện tại như năng lực tiếp thị, quảng bá quốc tế, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ.

Nhìn sang các nước trong khu vực có thể thấy, để phát triển du lịch y tế, họ không chỉ đầu tư cơ sở hạ tầng mà còn tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, chuẩn hóa quy trình và đẩy mạnh quảng bá. Đây cũng là những hướng đi mà Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy.

Nhưng vẫn còn những rào cản...

- Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã triển khai những chính sách hay chương trình gì nhằm hỗ trợ các cơ sở y tế trong nước đón tiếp bệnh nhân quốc tế, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Ngay sau khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Quyết định số 1685/QĐ-TTg ngày 05/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh kế mũi nhọn", Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2951/QĐ-BYT ngày 21/07/2023 phê duyệt Đề án "Phát triển các loại hình dịch vụ, sản phẩm y dược cổ truyền phục vụ khách du lịch đến năm 2030". Đây là một quyết định định hình khung chung cho lĩnh vực y dược cổ truyền tham gia vào thị trường du lịch sức khỏe. Đến nay theo báo cáo có đã có 15 tỉnh và 01 Bệnh viện châm cứu trung ương ban hành kế hoạch triển khai thực hiện (Quyết định số 1265/QĐ-BYT ngày 15/5/2024 của Bộ Y tế phê duyệt đề án "Phát triển các loại hình dịch vụ, sản phẩm Châm cứu - Y dược cổ truyền phục vụ khách du lịch đến năm 2030 tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương").

Các quyết định này không chỉ tạo điều kiện cho các cơ sở khám, chữa bệnh bằng YDCT mà còn các cơ sở nuôi trồng, các đơn vị sản xuất, kinh doanh có dịp tiếp cận và tham gia vào thị trường cung ứng dịch vụ, sản phẩm có chất lượng phục vụ khách du lịch.

Việt Nam triển khai và làm chủ thành công nhiều kỹ thuật ghép đa tạng.

Việt Nam triển khai và làm chủ thành công nhiều kỹ thuật ghép đa tạng.

Để tiếp tục có các cơ chế, chính sách hỗ trợ các cơ sở y tế trong nước đón tiếp bệnh nhân quốc tế, Bộ Y tế đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan xây dựng đề án phát triển các dịch vụ, sản phẩm đạt chất lượng cao để cung cấp cho thị trường du lịch, đây là cơ hội để các cơ sở y tế trong nước được tiếp cận với các chính sách mới và thuận lợi (phát triển hạ tầng, nhân lực, đầu tư, hợp tác quốc tế….) để tham gia cung ứng vào thị trường du lịch sức khỏe.

Ngành y tế Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật hiện đại, thực hiện nhiều kỹ thuật y khoa ngang tầm khu vực và tiệm cận chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, hiện vẫn còn những rào cản thu hút thu hút khách du lịch y tế quốc tế đến Việt Nam. Theo ông, rào cản lớn nhất là, về chất lượng chuyên môn, cơ sở vật chất, thủ tục hành chính, hay niềm tin thương hiệu?

Trong những năm gần đây, ngành y tế Việt Nam đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, du lịch y tế vẫn đối mặt với một số rào cản lớn. Hiện số bệnh viện đạt chuẩn quốc tế (như JCI) còn hạn chế; chưa có hệ thống đánh giá và công bố chất lượng phục vụ quảng bá ra nước ngoài. Việc thanh toán BHYT quốc tế chưa phổ biến, gây bất tiện cho khách ngoại.

Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ tại nhiều bệnh viện vẫn thiếu đồng bộ, nhất là các tiện ích như phiên dịch, truyền thông đa ngữ, chăm sóc hậu điều trị… Thêm vào đó, thương hiệu du lịch y tế Việt Nam còn mờ nhạt, hoạt động tiếp thị quốc tế chưa hiệu quả.

Trong các yếu tố này, rào cản lớn nhất hiện nay là niềm tin thương hiệu, do ít cơ sở đạt chuẩn quốc tế và thiếu chiến lược quảng bá bài bản. Khi giải quyết được điểm nghẽn này, các yếu tố còn lại như hạ tầng, dịch vụ và thủ tục sẽ được cải thiện tương ứng, tạo sức hút mạnh hơn với du khách quốc tế.

Làm gì để du lịch y tế của Việt Nam cất cánh?

- Thứ trưởng có thể cho biết, Bộ Y tế có định hướng gì trong việc xây dựng các trung tâm y tế đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tại những thành phố du lịch như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang…?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Về chủ trương, Bộ Y tế luôn định hướng phát triển hệ thống y tế đạt chuẩn khu vực và quốc tế trên toàn quốc, không chỉ riêng các thành phố lớn.

Quyết định số 89/QĐ- TTg ngày 23 tháng 01 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó giao nhiệm vụ cho ngành Y tế tiếp tục nghiên cứu, chú trọng liên kết với ngành du lịch để hình thành sản phẩm du lịch kết hợp với chăm sóc y tế góp phần phát triển kinh tế.

Bộ Y tế đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 27/2/2024 về việc Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có mục tiên "Phát triển một số bệnh viện chuyên sâu kỹ thuật cao, hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Củng cố, phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện.

Phát triển các bệnh viện tư nhân chuyên sâu và chuyên sâu kỹ thuật cao cung ứng các dịch vụ chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiến, trong đó một số bệnh viện ngang tầm quốc tế".

Ngoài ra, Bộ Y tế tham mưu các cấp ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chiến lược phát triển nhân lực chuyên sâu phục vụ nhiệm vụ trên. Tuy nhiên thời gian qua, do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhiệm vụ trên còn nhiều nội dung chưa đạt được theo yêu cầu.

Do đó, để có các tháo gỡ khó khăn liên quan đến cơ chế chính sách, việc huy động các nguồn lực nhà nước và của xã hội trong việc phát triển y tế nói chung và y tế chuyên sâu, Bộ Y tế đã và đang tham mưu Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị Quyết của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đây không chỉ là các chủ trương, quyết sách mạnh mẽ để phát triển ngành y tế nói chung và còn tạo bước phát triển đột phá đối với một số bệnh viện chuyên sâu kỹ thuật cao, hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế.

Bệnh nhân người nước ngoài thăm khám tại Bệnh viện K.

Bệnh nhân người nước ngoài thăm khám tại Bệnh viện K.

Đồng thời, Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ VHTT&DL và các bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng Đề án "Phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao và thúc đẩy du lịch y tế, thu hút người nước ngoài và người Việt Nam có khả năng chi trả giai đoạn 2025–2030". Một số định hướng chính trong Đề án gồm:

Lựa chọn địa phương và cơ sở y tế trọng điểm: Xem xét, ưu tiên các trung tâm du lịch lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Quảng Ninh…; lựa chọn các bệnh viện có thế mạnh về chuyên môn, cơ sở vật chất, dịch vụ để tham gia lộ trình đạt chuẩn quốc tế (JCI hoặc tương đương).

Nâng cao chất lượng chuyên môn và dịch vụ: Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị; thiết lập khu khám, điều trị riêng cho khách quốc tế và người có nhu cầu cao cấp; Tăng cường đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, văn hóa ứng xử quốc tế cho đội ngũ y tế.

Phát triển gói sản phẩm y tế – du lịch – nghỉ dưỡng: Xây dựng các gói kỹ thuật cao (ghép tạng, ung bướu, tim mạch, chỉnh hình, thẩm mỹ…), gói y học cổ truyền kết hợp nghỉ dưỡng, gói chăm sóc sức khỏe toàn diện; Liên kết với doanh nghiệp du lịch, khách sạn, hãng hàng không để triển khai dịch vụ trọn gói.

Hợp tác quốc tế và quảng bá thương hiệu: Mở rộng hợp tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và liên kết BHYT quốc tế.

Sau khi được phê duyệt, Đề án sẽ là cơ sở triển khai đồng bộ các giải pháp này, hướng tới mục tiêu hình thành các trung tâm y tế đạt chuẩn quốc tế tại những điểm đến du lịch trọng điểm, qua đó góp phần nâng cao vị thế y tế Việt Nam và thúc đẩy phát triển du lịch y tế hiệu quả, bền vững.

- Trong chiến lược phát triển du lịch y tế, việc đào tạo nhân lực y tế – đặc biệt là ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ khách quốc tế được chú trọng ra sao, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Trong chiến lược phát triển du lịch y tế, việc đào tạo nhân lực, đặc biệt là nâng cao trình độ ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ khách quốc tế, được xem là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trên bản đồ du lịch y tế toàn cầu.

Khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật hay tiếng Trung giúp phá vỡ rào cản ngôn ngữ, đảm bảo bệnh nhân quốc tế hiểu rõ tình trạng sức khỏe, tiền sử y tế cũng như quy trình điều trị. Đây là nền tảng để xây dựng lòng tin và sự an tâm cho khách hàng trong suốt hành trình khám chữa bệnh.

Không chỉ dừng lại ở ngôn ngữ, việc thấu hiểu văn hóa, phong tục và kỳ vọng của du khách từ các quốc gia khác nhau cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trải nghiệm dịch vụ. Một đội ngũ nhân viên y tế chuyên nghiệp, tận tâm và tinh tế sẽ tạo được ấn tượng tích cực, góp phần giữ chân khách hàng và lan tỏa uy tín thương hiệu.

Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt với các quốc gia dẫn đầu như Thái Lan, Singapore hay Malaysia, việc đầu tư vào con người – đội ngũ nhân lực chất lượng cao, giỏi chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ và có kỹ năng phục vụ chuyên nghiệp – cần được coi là lợi thế chiến lược. Đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế như JCI cũng đòi hỏi khả năng giao tiếp hiệu quả với bệnh nhân bằng ngôn ngữ họ hiểu.

Nắm bắt được yêu cầu này, nhiều bệnh viện và cơ sở y tế tại Việt Nam đã triển khai các chương trình đào tạo bài bản: từ tổ chức các khóa học ngoại ngữ cho bác sĩ, điều dưỡng và nhân viên hỗ trợ, đến các chương trình bồi dưỡng kỹ năng mềm, xây dựng đội ngũ phiên dịch viên chuyên trách và nhân viên quan hệ khách hàng quốc tế.

Bên cạnh đó, việc hợp tác quốc tế và cử nhân lực tham gia các chương trình tu nghiệp tại nước ngoài cũng góp phần nâng cao trình độ chuyên môn và hội nhập với môi trường y tế toàn cầu.

Việc đào tạo nhân lực y tế, đặc biệt về ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ khách quốc tế, không chỉ được chú trọng mà còn là điều kiện tiên quyết để phát triển du lịch y tế bền vững.

Với sự đầu tư bài bản, chiến lược dài hạn và sự phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng đội ngũ nhân lực y tế chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao uy tín của ngành y tế Việt Nam mà còn tạo ra giá trị kinh tế và xã hội to lớn, góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến hàng đầu trong lĩnh vực du lịch y tế.

- Để thu hút bệnh nhân nước ngoài, việc quảng bá hình ảnh và xây dựng thương hiệu y tế Việt Nam là rất quan trọng. Bộ Y tế có chiến lược truyền thông nào cho lĩnh vực này như thế nào, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Để thu hút bệnh nhân quốc tế, việc quảng bá hình ảnh và xây dựng thương hiệu y tế Việt Nam thực sự có vai trò then chốt. Bộ Y tế xác định truyền thông là một trong những giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao uy tín và gia tăng sức hút của ngành y tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Thứ nhất, Bộ Y tế đang triển khai chiến lược truyền thông nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam như một điểm đến an toàn, tin cậy và chất lượng trong chăm sóc sức khỏe. Điều này được thực hiện thông qua việc xây dựng các thông điệp thống nhất, nhấn mạnh vào thế mạnh của Việt Nam như chi phí hợp lý, chất lượng dịch vụ tiệm cận chuẩn quốc tế, các kỹ thuật y tế tiên tiến đã làm chủ, cũng như những ưu thế đặc thù về y học cổ truyền và du lịch nghỉ dưỡng.

Thứ hai, Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ với Bộ VHTT&DL cùng các cơ quan ngoại giao và địa phương, để xây dựng và quảng bá thương hiệu "Du lịch y tế Việt Nam". Hoạt động này không chỉ tập trung trong nước mà còn hướng tới các thị trường tiềm năng như ASEAN, Đông Bắc Á, châu Âu và Bắc Mỹ, nơi có nhiều kiều bào và du khách quốc tế quan tâm đến dịch vụ y tế chất lượng cao với chi phí hợp lý.

Thứ ba, Bộ Y tế khuyến khích và hỗ trợ các bệnh viện, cơ sở y tế tăng cường hợp tác quốc tế, liên kết với các hãng hàng không, công ty lữ hành và hệ thống truyền thông quốc tế để xây dựng các gói sản phẩm du lịch y tế đặc thù. Đây vừa là hoạt động quảng bá trực tiếp, vừa là cách tạo dựng thương hiệu thông qua trải nghiệm thực tế của bệnh nhân và du khách.

Thứ tư, Bộ Y tế chú trọng phát triển truyền thông số, tận dụng các nền tảng trực tuyến, mạng xã hội, website đa ngôn ngữ, ấn phẩm điện tử để lan tỏa thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch tới cộng đồng quốc tế. Các kênh này không chỉ giới thiệu dịch vụ y tế mà còn phản ánh câu chuyện thực tế, những thành tựu kỹ thuật, ca bệnh thành công, tạo dựng niềm tin bền vững.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng coi trọng việc chuẩn hóa hình ảnh và thương hiệu bệnh viện. Các cơ sở y tế được khuyến khích xây dựng bộ nhận diện thương hiệu, nâng cao kỹ năng truyền thông, ứng xử chuyên nghiệp với bệnh nhân quốc tế. Khi mỗi bệnh viện đều có hình ảnh uy tín, đồng bộ, thì thương hiệu chung "y tế Việt Nam" sẽ được củng cố và lan tỏa mạnh mẽ hơn.

Có thể khẳng định, truyền thông không chỉ dừng lại ở quảng bá, mà còn là công cụ quan trọng trong xây dựng niềm tin và thương hiệu quốc gia về y tế. Với chiến lược đồng bộ, sự phối hợp liên ngành và sự vào cuộc của các cơ sở y tế, Bộ Y tế tin tưởng rằng Việt Nam sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của khu vực trong lĩnh vực du lịch y tế trong những năm tới.

Du lịch y tế là một lĩnh vực đầy tiềm năng, mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế và hệ thống y tế quốc gia.

Du lịch y tế là một lĩnh vực đầy tiềm năng, mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế và hệ thống y tế quốc gia.

- Nhìn về dài hạn, Thứ trưởng kỳ vọng du lịch y tế sẽ đóng vai trò thế nào trong chiến lược phát triển kinh tế y tế của Việt Nam giai đoạn 2025–2030?

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên: Du lịch y tế là một lĩnh vực đầy tiềm năng, mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế và hệ thống y tế quốc gia. Năm 2024, Việt Nam có tên trong danh sách 110 quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt nhất thế giới, với vị trí xếp hạng 89/110 về chỉ số tổng thể. Việt Nam có điểm số cao về chỉ số cơ sở hạ tầng y tế và năng lực của đội ngũ chuyên gia y tế. Đây không chỉ là bằng chứng cho sự công nhận năng lực y tế của Việt Nam, mà còn thể hiện năng lực cạnh tranh trong phát triển du lịch y tế.

Tuy nhiên, để phát triển bền vững, cần có một khung pháp lý rõ ràng nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ, quyền lợi của bệnh nhân và tính cạnh tranh của ngành. Kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến cho thấy, việc hoàn thiện chính sách pháp luật, thiết lập tiêu chuẩn chất lượng y tế quốc tế, cải thiện thủ tục visa và đẩy mạnh quảng bá là những yếu tố then chốt giúp thúc đẩy du lịch y tế.

Việt Nam, với lợi thế về chi phí hợp lý và nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, cần nhanh chóng áp dụng các giải pháp phù hợp để khẳng định vị thế trên bản đồ du lịch y tế toàn cầu. Nếu có chiến lược phát triển đúng đắn, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một điểm đến hấp dẫn, thu hút bệnh nhân quốc tế, góp phần phát triển kinh tế - y tế trong nước ở tương lai.

- Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!

Hải Lý - Thái Bình (thực hiện)

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/thu-truong-bo-y-te-do-xuan-tuyen-du-lich-y-te-co-hoi-de-viet-nam-but-pha-169250910073941159.htm