Thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học thủy sản theo Khung Montreal
Việt Nam đang tiếp cận Khung toàn cầu Kunming–Montreal nhằm bảo tồn hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản bền vững đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Cục Thủy sản và Kiểm ngư phối hợp đối tác quốc tế xây dựng kế hoạch hành động ngành thủy sản trên cơ sở tham vấn rộng rãi.

Đoàn viên, thanh niên tỉnh Phú Yên dọn rác ở bờ biển Hòn Yến, Phú Yên. (Ảnh TTXVN)
Sáng 27/11, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học trong lĩnh vực thủy sản theo tiếp nhận Khung đa dạng sinh học toàn cầu Kuming-Montreal tại Việt Nam. Mục tiêu trọng tâm của hội thảo là hoàn thiện dự thảo kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050, đưa các mục tiêu đa dạng sinh học quốc tế vào thực tiễn của ngành thủy sản Việt Nam.
Khung Kunming–Montreal và yêu cầu đối với ngành thủy sản Việt Nam
Tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (COP15), thế giới đã thông qua Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming–Montreal, hướng tới giảm mạnh suy thoái hệ sinh thái, phục hồi môi trường tự nhiên, bảo vệ các loài hoang dã và sử dụng bền vững tài nguyên đến năm 2030.
Khung gồm bốn mục tiêu dài hạn và 23 chỉ tiêu cụ thể, trong đó có giảm khai thác quá mức, kiểm soát ô nhiễm nhựa đại dương, phục hồi hệ sinh thái ven bờ, mở rộng khu bảo tồn biển và tăng nguồn lực tài chính cho bảo tồn.
Cục Thủy sản và Kiểm ngư đang phối hợp WWF Việt Nam trong khuôn khổ dự án Thúc đẩy quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học, xây dựng dự thảo kế hoạch hành động quốc gia triển khai Khung Montreal. Hội thảo lần này là kênh tiếp nhận ý kiến từ chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, địa phương và doanh nghiệp- nhằm tạo nên một kế hoạch khả thi, có cơ chế phối hợp rõ ràng và lộ trình triển khai cụ thể.

Bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Hợp tác quốc tế (Cục Thủy sản và Kiểm ngư) phát biểu tại hội thảo.
Phát biểu tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Hợp tác quốc tế (Cục Thủy sản và Kiểm ngư), nhận định đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam chuyển các cam kết quốc tế thành hành động trong nước. Theo bà Dung thách thức đặt ra là duy trì tăng trưởng của ngành đang đóng góp lớn cho an ninh lương thực, xuất khẩu và sinh kế hàng triệu người, trong khi vẫn phải bảo tồn nguồn gen sinh học, giảm suy thoái môi trường và khôi phục hệ sinh thái ven biển-cửa sông.
Bà Dung nhấn mạnh cần xác định nhóm chỉ tiêu ưu tiên, xây dựng cơ chế phối hợp Nhà nước-doanh nghiệp-tổ chức xã hội, mở rộng mô hình nuôi bền vững, giảm phát thải và rác thải nhựa từ hoạt động chế biến, khai thác. Các nội dung thảo luận tại hội thảo tập trung vào quản lý nghề cá, nuôi biển tuần hoàn, phục hồi sinh cảnh và giám sát nguồn lợi tự nhiên bằng dữ liệu số.

Bà Lê Thu Hương, đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) phát biểu tại hội thảo.
Chia sẻ tại hội thảo, bà Lê Thu Hương, đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), cho biết thủy sản đã trở thành lĩnh vực ưu tiên trong Bản ghi nhớ hợp tác ký giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam với AFD từ tháng 5/2025. Tuy nhiên số lượng dự án vẫn còn hạn chế so với tiềm năng của ngành. Bà Hương kỳ vọng hội thảo tạo bước mở cho hợp tác chuyên sâu, đặc biệt trong phục hồi sinh thái biển, giảm tác động môi trường từ nuôi trồng và khai thác.
Ông Hoàng Việt, đại diện WWF Việt Nam, nhận định thủy sản là một trong những lĩnh vực chịu tác động mạnh nhất từ biến đổi khí hậu và suy thoái đại dương. WWF sẽ tiếp tục đồng hành trong giám sát nguồn lợi tự nhiên, hỗ trợ nghiên cứu sinh thái, tăng cường ứng dụng công nghệ theo tiêu chuẩn môi trường quốc tế.
“Kế hoạch hành động quốc gia là bước tiến quan trọng giúp Việt Nam tiến gần hơn các mục tiêu Montreal – cân bằng giữa phát triển và bảo tồn”, ông Hoàng Việt khẳng định.
Từ nguồn lợi rừng đến bảo tồn biển-mở rộng hợp tác liên ngành
Phát biểu tại hội thảo, ông Vũ Thành Nam, Trưởng phòng Sử dụng rừng và Thương mại lâm sản, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, cho rằng dự án lần này mang tính liên ngành đặc biệt, lần đầu tiên có sự phối hợp trực tiếp giữa lâm nghiệp và thủy sản ở cấp trung ương.

Ông Vũ Thành Nam, Trưởng phòng Sử dụng rừng và Thương mại lâm sản, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chia sẻ tại hội thảo.
Ông Nam cho biết Việt Nam hiện có 14,8 triệu ha rừng, tỷ lệ che phủ hơn 42%- tăng đáng kể so với giai đoạn thấp nhất vào cuối thập niên 1990. Trong đó, hơn 10 triệu ha là rừng tự nhiên, 4 triệu ha rừng trồng, phân bố trên ba nhóm rừng: đặc dụng, phòng hộ và sản xuất. Rừng tự nhiên đã đóng cửa khai thác từ năm 2014, sản lượng gỗ sử dụng trong nước chủ yếu từ rừng trồng khoảng 24 m³/năm-25 triệu m³/năm, song vẫn phải nhập thêm 5 triệu m³ đến 6 triệu m³ gỗ mỗi năm phục vụ chế biến.
Việt Nam hiện có hơn 700.000 ha rừng có chứng chỉ bền vững VFCS/FSC/PEFC, tạo nền tảng tiến vào các thị trường yêu cầu cao như EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy vậy, hơn 40% rừng trồng thuộc hộ gia đình-diện tích nhỏ lẻ, khó đạt chuẩn quốc tế. Do đó ngành lâm nghiệp đang ưu tiên kết hợp chứng chỉ quốc tế với xác minh nguồn gốc hợp pháp nhằm tạo vùng nguyên liệu ổn định, nâng giá trị xuất khẩu khoảng 17 tỷ USD/năm -18 tỷ USD/năm.
Ông Nam nhấn mạnh dự án bảo tồn đa dạng sinh học thủy sản là cơ hội hình thành cơ chế liên ngành lâu dài, chia sẻ dữ liệu nguồn lợi, chuẩn hóa kỹ thuật và tiêu chuẩn khai thác. Đây sẽ là nền tảng để quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng, mở rộng sinh kế xanh, giảm áp lực lên hệ sinh thái biển-rừng.
Tại hội thảo, các đại biểu thống nhất tập trung bốn nhóm giải pháp trọng tâm: Hoàn thiện dự thảo kế hoạch hành động theo Khung Kunming–Montreal; Tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng; Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng ven biển; Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực tài chính xanh…
Việt Nam đang đứng trước giai đoạn chuyển mình quan trọng trong phát triển thủy sản. Khung Montreal không chỉ là cam kết quốc tế mà còn là cơ hội để ngành hướng tới sản xuất xanh, có trách nhiệm, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cho thế hệ tương lai.
Hội thảo lần này được đánh giá là bước đi nền tảng để ngành thủy sản thực thi mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn 2050-phát triển thịnh vượng đi đôi với gìn giữ đa dạng sinh học.











