Thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp

Ngày 3-6-2020, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 749/QÐ-TTG về Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, theo đó nông nghiệp được xác định là một trong những ngành ưu tiên chuyển đổi số (CÐS). Có ý kiến cho rằng, để tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp CÐS tích cực hơn nữa.

Trồng hoa chậu công nghệ cao tại Công ty Dalat Hasfarm (Lâm Ðồng). Ảnh: ÐOÀN SƠN

Trồng hoa chậu công nghệ cao tại Công ty Dalat Hasfarm (Lâm Ðồng). Ảnh: ÐOÀN SƠN

Ngày 3-6-2020, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 749/QÐ-TTG về Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, theo đó nông nghiệp được xác định là một trong những ngành ưu tiên chuyển đổi số (CÐS). Có ý kiến cho rằng, để tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp CÐS tích cực hơn nữa.

Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng CÐS, góp phần phát triển nông nghiệp thông minh, tạo ra các nông sản chất lượng cao. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến đã làm "thay da đổi thịt" nông nghiệp nước nhà. Thí dụ, sử dụng in-tơ-nét đã giúp đơn giản hóa và hợp lý hóa việc thu thập, các khâu kiểm tra, phân phối tổng thể tài nguyên nông nghiệp. Các chương trình, phần mềm quản trị vườn trồng, nông nghiệp chính xác được áp dụng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên (nước, phân bón…) để dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại, tạo ra nhiều cơ hội tăng năng suất lao động, giảm phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thời tiết, kiểm soát dịch bệnh và công tác giống được thực hiện tốt hơn. Ðơn cử như trong trồng trọt, đã ứng dụng công nghệ IOT, BigData thông qua các sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây. Mặc dù hiện tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp sử dụng nhà lưới, nhà kính, nhà màng nuôi trồng cây chưa đáp ứng như mong muốn, song việc áp dụng các công nghệ này ngày càng phổ biến ở nhiều nơi chứ không chỉ tập trung tại một số địa phương: TP Hồ Chí Minh, Lâm Ðồng, Hà Nội, Quảng Ninh như trước đây. Trong lĩnh vực lâm nghiệp đã dùng công nghệ DND mã mạch trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản, phần mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng. Trong lĩnh vực chăn nuôi, công nghệ IOT, blockchain, công nghệ sinh học được áp dụng ở trang trại chăn nuôi quy mô lớn, nổi bật là mô hình các trang trại hiện đại nuôi bò sữa của Tập đoàn TH TrueMilk, Công ty Vinamilk. Ngoài ra, còn dùng phần mềm ứng dụng trên điện thoại thông minh để quản lý việc áp dụng an toàn sinh học, tiêm phòng, thức ăn tại cơ sở chăn nuôi; giúp ngành chức năng quản lý về tình hình tiêm phòng, theo dõi được trang trại bị lây nhiễm dịch bệnh, việc xử lý tiêu hủy gia súc, gia cầm và việc hỗ trợ thiệt hại do dịch bệnh gây ra...

Ðối với lĩnh vực thủy sản, đã sử dụng thiết bị dò cá bằng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh, máy thu lưới vây, hệ thống thu - thả lưới chụp, công nghệ GIS và hệ thống định vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Trong nuôi trồng thủy sản thì ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, lai tạo các giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi trường; công nghệ trí tuệ nhân tạo trong nuôi tôm nhằm phân tích các dữ liệu về chất lượng nước, quản lý thức ăn và sức khỏe của tôm nuôi. Công nghệ tự động hóa được áp dụng trong khâu chế biến thủy sản (từ phân loại, hấp, đóng gói, dây chuyền sản xuất), giúp giảm chi phí, bảo đảm chất lượng sản phẩm.

Có thể thấy, để hiện đại hóa ngành nông nghiệp thì CÐS là xu hướng tất yếu, bởi công nghệ tiên tiến sẽ giúp nâng cao năng suất và giá trị nông sản. Trao đổi về vấn đề này, Giám đốc HTX Nông nghiệp số (Hà Nội) Lê Anh Hoàng cho biết thêm, nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo ra nhiều cơ hội để các chủ thể OCOP chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị, định hướng sản xuất theo hướng hàng hóa, đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu, đồng thời bảo đảm sinh kế cho nông dân.

Thực tế cho thấy, việc CÐS trong nông nghiệp đã đạt những kết quả khả quan, song còn đối mặt với một số thách thức: Cơ sở hạ tầng cho phát triển, ứng dụng các công nghệ mới chưa đồng bộ, kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp. Trình độ cơ giới hóa sản xuất còn thấp, các công nghệ phụ trợ phục vụ phát triển nông nghiệp (cơ khí, chế biến sâu, dây chuyền kiểm nghiệm sản phẩm nông nghiệp…) chưa tương xứng. Nguồn nhân lực có chuyên môn cao về sản xuất, chế biến nông sản, biết sử dụng, vận hành các thiết bị (tự động, số, thiết bị phân tích...) rất hạn chế, bởi trình độ nhân lực lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là nông dân, chưa được đào tạo chuyên môn bài bản.

Theo các chuyên gia, để khắc phục những bất cập này, trước tiên cần xác định việc CÐS trong nông nghiệp phải dựa trên nền tảng dữ liệu. Trong đó, chú trọng xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành như về đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản… Thiết lập mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên không và mặt đất phục vụ các hoạt động nông nghiệp. Thúc đẩy cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai…, để nông dân biết, tìm cách nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng; hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nông nghiệp qua các nền tảng số. Ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn vệ sinh thực phẩm. Cùng với đó là vai trò trọng yếu của Nhà nước trong việc định hướng, thúc đẩy CÐS trong nông nghiệp thông qua các chính sách hỗ trợ phù hợp thực tiễn sản xuất, huy động được các nguồn lực trong xã hội phát triển đồng bộ, toàn diện nền nông nghiệp. Ðồng thời đồng hành cùng các thành phần kinh tế khác thực hiện quá trình CÐS hiệu quả bằng cách nâng cao nhận thức, tầm nhìn và chiến lược cho doanh nghiệp về CÐS. Mặt khác, thời gian tới nên thử nghiệm triển khai sáng kiến "Mỗi nông dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số" với mục tiêu mỗi người nông dân được định hướng, đào tạo ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo (giá, thời vụ…) nông sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử để họ được thụ hưởng các lợi ích mà CÐS mang lại. Nếu thực hiện một cách bài bản, khoa học, chúng ta sẽ có đủ điều kiện tạo nên một ngành nông nghiệp mạnh, góp phần tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế, hiện đại hóa đất nước.

Anh Quang

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi/thuc-day-chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-642602/