Thúc đẩy kinh tế tư nhân cần những quyết sách mạnh mẽ
Trong gần 4 thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, chuyển mình từ một thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ, manh mún thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Về quy mô, theo số liệu của Cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP; trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. Khu vực này tạo việc làm cho khoảng 85% lao động cả nước.
Vai trò quyết định đối với mục tiêu tăng trưởng cao
Như vậy, kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng của hơn 50% GDP của Việt Nam. Chúng ta không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều trên công nghệ, đổi mới sáng tạo nếu như khu vực kinh tế tư nhân, hiện chiếm hơn nửa nền kinh tế này, không tăng trưởng ở tốc độ cao, không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong tổng cầu và do vậy đóng vai trò quyết định tới tốc độ tăng trưởng. Sự đóng góp này thể hiện qua đầu tư tư nhân, tiêu dùng của doanh nghiệp và các cơ sở kinh tế và đóng góp của kinh tế tư nhân cho xuất nhập khẩu.
Từ góc độ tổng cầu, khu vực kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp tới gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Cũng từ góc độ đầu tư vốn là một cấu phần quan trọng của tổng cầu, khu vực tư nhân đang đóng vai trò quan trọng về đầu tư. Kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp 56% tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là tỷ trọng rất cao so với mức 28% của khu vực kinh tế nhà nước và 16% của khu vực FDI. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỷ USD vào năm 2025, đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỷ USD, hay xấp xỉ 56%. Đầu tư công sẽ chỉ đóng góp khoảng 36 tỷ USD, khu vực FDI khoảng 28 tỷ USD và đầu tư khác khoảng 14 tỷ USD.
Như vậy, chỉ cần đầu tư của kinh tế tư nhân tăng 1% sẽ mang lại mức tăng về giá trị tuyệt đối tương đương với việc đầu tư công phải tăng 2,5% và đầu tư nước ngoài phải tăng 3,5%. Tác động của tăng trưởng đầu tư tư nhân trong nước đối với tổng cầu lớn hơn rất nhiều so với đầu tư từ khu vực công và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khác với đầu tư công và đầu tư nước ngoài vốn có những hạn chế để mở rộng về khối lượng, như các giới hạn về trần nợ công, về áp lực đối với ngân sách nhà nước hay các cân nhắc về tỷ trọng cũng như chất lượng đầu tư FDI trong bài toán tổng thể về đầu tư của nền kinh tế, tiềm năng mở rộng đầu tư từ khu vực kinh tế trong nước là rất lớn nếu nhìn vào tài sản hiện vẫn được người dân nắm giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ, đất đai, tiết kiệm gửi trong hệ thống ngân hàng. Mở rộng đầu tư tư nhân sẽ nâng cao được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và bền vững hơn.
Các doanh nghiệp tư nhân đã vượt qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực FDI và khu vực hành chính công về phương diện tạo thu nhập cho người lao động, và khoảng cách này ngày một nới rộng hơn. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đang tạo việc làm và sinh kế cho hơn 80% lực lượng lao động. Việc làm do các doanh nghiệp khu vực tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người lao động dịch chuyển từ các công việc có lương thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp sang làm việc ở những ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn.
Hiện nay, một công nhân trong các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong nước có thu nhập cao gấp 3 lần so với một nông dân bình thường. Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân không chỉ tạo sinh kế, việc làm mà còn tạo cơ hội để có việc làm tốt hơn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân, đóng góp cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng góp đáng kể vào sự mở rộng phạm vi che phủ của bảo hiểm xã hội và các chương trình an sinh xã hội. Với những nỗ lực đang tiếp diễn về cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách khu vực công, rõ ràng kinh tế tư nhân sẽ là khu vực chịu trách nhiệm chính cho mục tiêu đến năm 2025 có khoảng 45% và đến năm 2030 có khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội theo tinh thần Nghị quyết 28-NQ/TW. Đây là thời điểm mà chúng ta cần phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế. Vì thế, khu vực tư nhân phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn.
Kinh tế tư nhân không chỉ là các doanh nghiệp tư nhân lớn
Cơ cấu của các doanh nghiệp tư nhân đăng ký chính thức hiện có sự mất cân đối. Trong số 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, phần lớn vẫn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trong khi số lượng doanh nghiệp cỡ vừa còn hạn chế. Hiện nay, xấp xỉ 97% các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước có quy mô siêu nhỏ và nhỏ, các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm 1,5% tổng số, các doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,5%. Điều này tạo ra cơ cấu doanh nghiệp “bất thường” khi so sánh với Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Hiện tượng thiếu doanh nghiệp cỡ vừa, tức là tình trạng các doanh nghiệp có quy mô trung bình có số lượng rất ít ỏi, là một điều đáng quan ngại.
Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa cũng là một biểu hiện cho thấy có rất ít doanh nghiệp nhỏ đã lớn lên để trở thành doanh nghiệp quy mô vừa do hạn chế về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và do những khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Các doanh nghiệp nhỏ thiếu năng lực cũng như động cơ và tham vọng phát triển về quy mô. Hiện tượng thiếu doanh nghiệp cỡ vừa cũng cho thấy sẽ không có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa sẽ phát triển thành doanh nghiệp quy mô lớn trong trung hạn. Vấn đề này cần phải được giải quyết, do nguyên tắc thường thấy là các công ty lớn hơn có khả năng tốt hơn để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô để hoạt động hiệu quả hơn và mang lại năng suất cao hơn cho nền kinh tế. Nó cũng khiến nền kinh tế thiếu lực lượng dự bị để trở thành doanh nghiệp lớn và từ đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Bên cạnh đó, tính phi chính thức của khu vực kinh tế tư nhân còn rất cao. Bên cạnh 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, còn có hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hàng trăm ngàn cá nhân kinh doanh, buôn bán, sản xuất nhỏ lẻ không đăng ký. Về quy mô, theo số liệu của Cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. Các chủ thể này thuộc khu vực kinh tế tư nhân tuy đóng vai trò quan trọng như vậy, song lại có địa vị pháp lý không rõ ràng.
Trên thực tế, Bộ luật Dân sự chỉ còn duy trì tư cách chủ thể của cá nhân và pháp nhân. Tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác sẽ được quy về cá nhân và quan hệ đại diện giữa các cá nhân đó. Trong khuôn khổ pháp luật hiện hành từ năm 2015, hộ kinh doanh không được công nhận là một bên trong các hợp đồng giao dịch thương mại và không phải là pháp nhân. Vì lý do đó, hộ kinh doanh cũng không được tham gia các cuộc đấu thầu cạnh tranh, gặp khó khăn trong giao kết hợp đồng.
Trên cơ sở Bộ luật Dân sự, các quy định về tài chính, tín dụng, ngân hàng, hợp đồng cùng nhiều lĩnh vực khác cũng không còn công nhận địa vị pháp lý của hộ kinh doanh là một bên trong hợp đồng dân sự. Giao dịch với ngân hàng, tổ chức tín dụng, công ty tài chính cũng được quy về quan hệ với cá nhân là chủ hộ kinh doanh hơn là hộ kinh doanh đó. Vì vậy, việc vay ngân hàng không được đứng tên hộ kinh doanh. Thay vào đó, hộ kinh doanh thực hiện vay vốn dưới hình thức hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và chủ hộ kinh doanh với tư cách cá nhân. Do vậy, khó khăn cũng phát sinh khi giao kết hợp đồng dân sự dưới tên hộ kinh doanh.
Để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, cần có các chính sách có tính kiến tạo để doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức chuyển đổi thành doanh nghiệp, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, để các doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao được năng lực và trở thành động lực, hạt nhân tăng trưởng của một ngành, một khu vực hay một cụm doanh nghiệp.
Sự tập trung gần đây và khu vực kinh tế tư nhân dường như mới chủ yếu là vào các doanh nghiệp tư nhân được đăng ký chính thức, đặc biệt là các tập đoàn doanh nghiệp tư nhân lớn. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần quan tâm mạnh mẽ hơn nữa tới các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tới vấn đề phát triển các doanh nghiệp cỡ vừa và tới khu vực cơ sở kinh tế, các chủ thể kinh doanh vẫn đang được coi là phi chính thức hoặc bán chính thức như hộ kinh doanh và các cá nhân kinh doanh. Phát triển được các chủ thể kinh tế ở khu vực này có ý nghĩa quan trọng không kém đối với việc phát huy được vai trò của các doanh nghiệp lớn, tập đoàn tư nhân lớn.

Kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng của hơn 50% GDP
Cần những quyết sách mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế tư nhân
Để kích hoạt tiềm năng vô cùng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta cần những quyết sách để nuôi dưỡng tinh thần doanh nghiệp, để quyền tự do kinh doanh được củng cố mạnh mẽ hơn nữa và doanh nghiệp được thực sự được phép tự do làm những điều pháp luật không cấm. Những quyết sách đó sẽ tạo nền tảng để quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Phương thức điều hành của cơ quan quản lý dựa nhiều hơn trên các nguyên tắc, công cụ thị trường hơn là các quyết định hành chính.
Các quyết sách đối với khu vực kinh tế tư nhân cần đưa ra định hướng để hệ thống pháp luật cần được xây dựng theo hướng không chỉ phục vụ mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước, mà còn đóng vai trò kiến tạo để khơi thông nguồn lực, xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, chi phí thấp và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế.
Hệ thống pháp luật phải sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ và cơ chế thị trường trong huy động, phân bổ nguồn lực, khai thông được nguồn lực để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư vào khoa học - công nghệ, và ứng dụng đổi mới sáng tạo. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết lập các cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ.
Những quyết sách đó sẽ là nền tảng để nhanh chóng giới thiệu và áp dụng các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox), các chính sách dành cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cũng như các biện pháp hỗ trợ hấp thụ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành được hệ sinh thái để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các ý tưởng kinh doanh của các doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ.
Cùng với đó, hệ thống pháp luật cũng cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật, và hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Đồng thời, các tổ chức và định chế vận hành bộ máy thực thi chính sách cũng được cải cách. Quá trình tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền sẽ được đẩy mạnh để bộ máy nhà nước sẽ được tổ chức theo hướng phục vụ doanh nghiệp và người dân, thay vì chỉ đơn thuần đóng vai trò quản lý hành chính. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển, thể hiện qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ công, đẩy nhanh tiến độ xử lý thủ tục hành chính, và nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định.
Những quyết sách như vậy sẽ giúp doanh nghiệp thấy họ được hoạt động trong môi trường an toàn, được pháp luật bảo vệ và bao dung khi thất bại, và để có cơ hội làm lại. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ phấn khởi, hồ hởi trong sản xuất, kinh doanh, hào hứng đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, vào ý tưởng, mô hình kinh doanh mới…; đồng thời sẽ đẩy mạnh hơn nữa tinh thần khởi nghiệp, bảo vệ mạnh mẽ hơn nữa doanh nhân, doanh nghiệp khi họ triển khai những ý tưởng kinh doanh mà chưa có tiền lệ song pháp luật không cấm, từ đó sẽ thúc đẩy tinh thần dám chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào đổi mới sáng tạo thông qua nhiều cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hơn nữa trong rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật.
Những quyết sách như vậy cũng sẽ khẳng định và củng cố vai trò của kinh tế tư nhân trong nước là trụ cột chính và động lực chính của nền kinh tế, đặc biệt là trong nỗ lực đạt được tốc độ tăng trưởng cao và để nền kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ, vững chắc sang một nền kinh tế thu nhập cao, dựa trên đổi mới, sáng tạo, năng suất lao động, giá trị gia tăng cao và hàm lượng tri thức lớn.
Coi kinh tế tư nhân là trụ cột chính và động lực chính cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, phồn vinh, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ gần hơn, khả thi hơn, dễ được hiện thực hóa hơn khi có sự chung tay của người dân, của khu vực kinh tế tư nhân trong nước.