Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững qua nhãn sinh thái

Nhãn sinh thái không chỉ mở đường cho sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững mà còn tạo lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị trường, nâng cao uy tín cho doanh nghiệp.

Công cụ giúp chuyển đổi từ sản phẩm “nâu” sang “xanh”

Một trong những mục tiêu trọng tâm của Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030 (Chương trình SCP) đặt ra đến năm 2025, có 85% các siêu thị, trung tâm thương mại phân phối, sử dụng sản phẩm bao bì thân thiện môi trường thay thế dần cho sản phẩm bao bì nhựa dùng một lần, khó phân hủy; xây dựng, thúc đẩy phát triển chuỗi cung ứng bền vững; khuyến khích phân phối các sản phẩm thân thiện môi trường, được dán nhãn sinh thái tại các siêu thị, trung tâm thương mại.

Chương trình SCP khuyến khích các siêu thị, trung tâm thương mại phân phối các sản phẩm được dán nhãn sinh thái

Chương trình SCP khuyến khích các siêu thị, trung tâm thương mại phân phối các sản phẩm được dán nhãn sinh thái

Để thực hiện mục tiêu đó, Chương trình cũng đề ra nhiệm vụ xây dựng, vận hành hệ thống chứng nhận và dán nhãn sinh thái gồm nhãn xanh, nhãn năng lượng, nhãn các bon, nhãn tái chế và các nhãn sinh thái khác.

Theo đánh giá của các chuyên gia, tại Việt Nam, hiện có nhãn năng lượng đã thành công và đi vào cuộc sống, mang lại những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên hiện còn nhiều sản phẩm, hàng hóa hiện vẫn đang chờ các cơ quan quản lý xây dựng các tiêu chí xanh cho từng ngành hàng, sản phẩm.

Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.

Tại Việt Nam, hệ thống pháp lí về nhãn xanh được hình thành từ Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014 và hoàn thiện trong Luật 2020. Năm 2009, chương trình thí điểm được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm: sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường (gồm túi phân hủy và túi tái chế).

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này, một số doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận nhưng số lượng còn hạn chế.

Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu văn bản hướng dẫn.

Chẳng hạn, Luật quy định thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này”- ông Nam dẫn chứng.

Các sản phẩm của Công ty Hoàng Quỳnh tham gia Mạng lưới các nhà sản xuất và phân phối xanh và được gắn nhãn sản phẩm thân thiện môi trường (sản phẩm organic).

Các sản phẩm của Công ty Hoàng Quỳnh tham gia Mạng lưới các nhà sản xuất và phân phối xanh và được gắn nhãn sản phẩm thân thiện môi trường (sản phẩm organic).

Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tích hợp các quy định về nhãn sinh thái thành một hệ thống thống nhất - Nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Đáng chú ý, các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đây được coi là bước tiến quan trọng, kì vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững.

Cần hoàn thiện chính sách và tạo thị trường hấp dẫn

Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho rằng chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu khi thế giới cùng lúc đối mặt ba cuộc khủng hoảng môi trường lớn. Việt Nam đã có khung chính sách khá đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24, Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn đến Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam triển khai từ năm 2009.

Nhận thức tiêu dùng cũng thay đổi khi 86% người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường, 62% quyết định mua bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các FTA và yêu cầu môi trường ngày càng khắt khe từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cùng với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng AI đang tạo sức ép và cơ hội cho quá trình chuyển đổi.

Tuy nhiên, kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn mà công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính là một trong những rào cản lớn.

Sợi tơ sen được sử dụng để dệt lụa

Sợi tơ sen được sử dụng để dệt lụa

Ông Thắng cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.

Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một ‘sân chơi’ và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Phải xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp cho từng ngành hàng, gắn với lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, để doanh nghiệp dễ áp dụng, còn người mua dễ nhận biết.

Rất cần có chính sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình gắn nhãn sinh thái. Điều quan trọng là có một khung quy định rõ ràng, đồng bộ, ổn định, đi kèm với hướng dẫn thực thi cụ thể, giúp doanh nghiệp chủ động đáp ứng tiêu chí, giảm vướng mắc trong chứng nhận và đưa sản phẩm ra thị trường”, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường chia sẻ ý kiến.

Từ các phân tích trên, ông Thắng đề nghị: Cải cách thủ tục hành chính để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dự án hỗ trợ, cũng như các nguồn vốn vay ưu đãi cho phát triển xanh; đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lí, tăng cường số hóa quy trình sẽ góp phần giảm chi phí tuân thủ, từ đó thúc đẩy cả phía cung lẫn cầu đối với sản phẩm gắn nhãn sinh thái; cân nhắc chuyển giao vai trò cấp chứng nhận nhãn sinh thái cho các tổ chức độc lập, thay vì để cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện.

Bổ sung ưu đãi về thuế cho phát triển xanh

Ở góc nhìn khác ông Trịnh Quang Hưng – Trưởng phòng Thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường (Bộ Tài chính) cho biết chính sách thuế liên quan đến bảo vệ môi trường đã được quy định trong các luật hiện hành như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế bảo vệ môi trường.

Theo Nghị định 31/2021/NĐ-CP, các ngành nghề bảo vệ môi trường được cấp chứng chỉ xanh thuộc diện ưu đãi đầu tư, doanh nghiệp và cá nhân khi khai nộp thuế sẽ được hưởng ưu đãi theo giấy chứng nhận. Trong lĩnh vực mua sắm công, Luật Bảo vệ môi trường đã tạo nền tảng cho việc ưu tiên sản phẩm xanh, dù quá trình áp dụng còn một số vướng mắc.

Hiện nhiều người tiêu dùng đã lựa chọn sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện môi trường, an toàn cho sức khỏe

Hiện nhiều người tiêu dùng đã lựa chọn sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện môi trường, an toàn cho sức khỏe

Ông Hưng cho biết Bộ Tài chính đang xây dựng Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) để trình Quốc hội vào tháng 10 tới, trong đó bổ sung ưu đãi liên quan đến phát triển xanh, trung hòa carbon và net zero. Luật dự kiến sẽ miễn thuế cho một số khoản thu nhập như tín chỉ carbon, trái phiếu xanh và chuyển nhượng tín chỉ carbon. Đây sẽ là động lực quan trọng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất xanh, bền vững.

Theo các chuyên gia, nhãn sinh thái chính là “tấm hộ chiếu xanh” để doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng có trách nhiệm, đồng thời giúp người dân có cơ sở lựa chọn sản phẩm an toàn, chất lượng. Để công cụ này phát huy hiệu quả, cần sự đồng hành ba bên: Nhà nước hoàn thiện thể chế và chính sách ưu đãi; doanh nghiệp đầu tư đổi mới sản xuất; và người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn hàng hóa xanh.Trong thời gian tới, xu hướng chuyển đổi xanh là tất yếu và không thể né tránh. Đây không chỉ là việc bảo vệ môi trường phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế, mà còn là bảo vệ sự phát triển của chính mỗi doanh nghiệp và người dân

Thu Hường

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/thuc-day-san-xuat-va-tieu-dung-ben-vung-qua-nhan-sinh-thai-418483.html