CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG – CHÌA KHÓA CHO THỊNH VƯỢNG QUỐC GIA

Trong bốn thập kỷ đổi mới, kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: duy trì tốc độ tăng trưởng cao, khá ổn định; hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu với việc ký kết 17 hiệp định thương mại tự do, mở ra thị trường rộng lớn cho hàng hóa, dịch vụ và vốn đầu tư; đời sống nhân dân cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, đưa Việt Nam từ nhóm nước có thu nhập thấp vươn lên nhóm thu nhập trung bình.

Cơ cấu ngành kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại, tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP giảm dần, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh.

Việt Nam đã trở thành cứ điểm sản xuất trong nhiều chuỗi giá trị toàn cầu. Chất lượng tăng trưởng từng bước được nâng lên, thể hiện qua năng suất lao động (NSLĐ) được cải thiện dù tốc độ tăng còn chưa được như kỳ vọng; đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo tuy còn khiêm tốn nhưng đang dần gia tăng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng chính là động lực quan trọng làm nên thành tựu to lớn đó.

Một số kết quả trong chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng

Giai đoạn 2021-2025, trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy bất lợi, nhưng dưới sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, hiệu quả của Đảng và Nhà nước, với việc ban hành, triển khai thực hiện hàng loạt quyết sách quan trọng như: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2021-2030; Chiến lược phát triển bền vững; Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội 2022-2023; cùng với phát huy các lợi thế từ hội nhập quốc tế sâu rộng; sự năng động của khu vực doanh nghiệp; nắm bắt cơ hội từ cú hích của chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo… Kinh tế Việt Nam đã vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội để chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, đạt được một số thành tựu nổi bật sau:

Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam đã có bước dịch chuyển đáng kể theo hướng hiện đại. Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chuyển mạnh từ "lượng sang chất", tỷ trọng của khu vực này trong GDP giảm dần nhưng quy mô và tốc độ tăng đạt mức cao nhờ tái cơ cấu theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ, gắn với chuỗi giá trị xuất khẩu. Năm 2024, tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 11,96% GDP, giảm 0,8 điểm phần trăm so với tỷ trọng này của năm 2020.

Việt Nam duy trì được vị trí trong nhóm 5 nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới, với kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt 44,55 tỷ USD.

Đặc biệt, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bệ đỡ của nền kinh tế trước các cú sốc mà còn đóng góp quan trọng vào tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí hậu.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục giữ vai trò động lực phát triển. Năm 2024, tỷ trọng của khu vực này chiếm 37,64% GDP, tăng 0,9 điểm phần trăm so năm 2020. Đặc biệt, công nghiệp chế biến, chế tạo đóng góp 24,43% GDP, trở thành trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế.

Việt Nam hiện nằm trong nhóm 20 quốc gia xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến hàng đầu thế giới, với kim ngạch xuất khẩu chiếm 88,0% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế.

Khu vực dịch vụ phục hồi mạnh sau đại dịch COVID-19. Năm 2024 khu vực này đóng góp 42,36% GDP, phản ánh xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường.

Các ngành dịch vụ hiện đại như tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin, thương mại điện tử, logistics có tốc độ tăng trưởng mạnh, góp phần nâng cao chất lượng đời sống và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia.

Năm 2024, doanh thu thương mại điện tử vượt mốc 25 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với năm 2023. Dịch vụ logistics và dịch vụ tài chính trở thành động lực mới cho hội nhập quốc tế.

Các thành phần kinh tế năng động hơn, cơ cấu sở hữu đa dạng và hài hòa hơn, bổ trợ lẫn nhau, giữ vững ổn định vĩ mô, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng. Năm 2023, khu vực kinh tế này đóng góp 50,42% GDP và 22,8% thu trong nước của ngân sách nhà nước, tăng 3,7 điểm phần trăm so với năm 2020;tạo việc làm cho 81,8%lao động có việc làm của nền kinh tế.

Sự năng động của khu vực doanh nghiệp tư nhân đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ và đổi mới sáng tạo.

Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò then chốt trong các lĩnh vực chiến lược như năng lượng, tài chính, viễn thông, hạ tầng trọng yếu; năm 2023 đóng góp 21,03% GDP và 12,2% thu trong nước, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm 2020.

Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tiếp tục là một trụ cột tăng trưởng và động lực quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; năm 2023 đóng góp 20,29% GDP; 16,2% thu trong nước, tăng không đáng kể so với tỷ lệ này của năm 2020 và 73,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều dự án FDI có giá trị hàng tỷ USD trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ số, tài chính xanh đã kết nối Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Cơ cấu vùng kinh tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương và thúc đẩy liên kết vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đã phát huy vai trò đầu tàu.

Vùng Tây Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long cũng chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, dịch vụ, từng bước giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thô và nông nghiệp truyền thống.

Các đô thị lớn và vùng động lực thực sự trở thành các cực tăng trưởng, tạo ra giá trị kinh tế lớn, đồng thời lan tỏa động lực phát triển sang khu vực xung quanh, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển vùng miền. Cực tăng trưởng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đóng vai trò trung tâm về dịch vụ tài chính, thương mại, giáo dục - đào tạo, đổi mới sáng tạo. Các cực tăng trưởng mới đang hình thành.

Hệ thống hành lang kinh tế từng bước khẳng định vai trò gắn kết phát triển với thị trường trong nước, đưa Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới hạ tầng khu vực. Chẳng hạn, hành lang kinh tế Đông - Tây kết nối Myanmar - Thái Lan - Lào - Việt Nam qua cửa khẩu Lao Bảo thúc đẩy thương mại và logistics khu vực miền Trung.

Chuyển đổi cơ cấu vùng, phát triển cực tăng trưởng và hành lang phát triển đã tạo ra bức tranh đa cực, tạo liên kết ngày càng chặt chẽ, khai thác hiệu quả hơn tiềm năng vùng miền, gia tăng sức mạnh tổng thể của nền kinh tế.

Trong thập kỷ gần đây, chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được nâng cao, tăng trưởng không còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn và lao động như trước mà từng bước chuyển sang nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Giai đoạn 2016-2020, TFP đóng góp 46,0% vào tăng trưởng GDP, cao hơn 11,29 điểm phần trăm so với giai đoạn 2011-2015. Mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch và suy giảm kinh tế toàn cầu, giai đoạn 2021-2024, TFP vẫn duy trì ở mức 43,57%, thấp hơn 2,43 điểm phần trăm so với giai đoạn trước. Thành tựu này phản ánh kết quả của quá trình cải cách thể chế, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Năng suất lao động (NSLĐ) vẫn giữ được đà tăng cả về giá trị và tốc độ, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. NSLĐ bình quân năm giai đoạn 2021-2024 tăng 6,7%. Tuy nhiên, tốc độ tăng NSLĐ từng năm trong giai đoạn này có sự dao động lớn do chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng để giữ ổn định, từng bước phục hồi kinh tế trong và sau đại dịch COVID-19. Chẳng hạn, NSLĐ năm 2021 tăng 12,0%, sau đó tốc độ tăng chậm lại chỉ ở mức 3,7% năm 2023. Trong giai đoạn 2021-2024, ngoại trừ tốc độ tăng năm 2021 ở mức hai chữ số, tốc độ tăng NSLĐ bình quân năm giai đoạn 2022-2024 chỉ đạt 4,9%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu kế hoạch.

Thành tựu về tăng trưởng kinh tế, hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế, giảm nghèo… phản ánh kinh tế nước ta đã đạt được bước tiến quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và từng bước nâng cao chất lượng tăng trưởng dựa vào năng suất, đổi mới công nghệ và hội nhập.

Đây là nền tảng để nền kinh tế bước vào giai đoạn 2026-2030 với khát vọng phát triển nhanh, bền vững và tiệm cận trình độ các nước công nghiệp mới trong khu vực.

Một số tồn tại, hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng trong thời gian qua vẫn bộc lộ những hạn chế, đặt ra nhiều thách thức cần được tập trung khắc phục hiệu quả trong thời gian tới.

Cụ thể là, cơ cấu ngành kinh tế phát triển chưa "đồng biến" với quy luật chung của kinh tế thị trường: khu vực dịch vụ tăng nhanh nhưng nền công nghiệp, đặc biệt công nghiệp chế biến, chế tạo chưa đủ mạnh để đóng vai trò trụ cột, dẫn dắt.

Khu vực công nghiệp chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp với hàm lượng công nghệ thấp, thiếu thương hiệu và chuỗi cung ứng nội địa. Điều này khiến khu vực dịch vụ phát triển theo hướng "ăn theo" tiêu dùng và nhập khẩu, thay vì bứt phá nhờ nền tảng công nghiệp vững chắc.

Công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng tỷ trọng trong GDP nhưng trình độ sản xuất ở mức độ thấp. Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm tỷ trọng trong GDP nhưng chưa tạo được đột phá về nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất quy mô lớn; tính bền vững và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ hiện đại như tài chính, công nghệ thông tin, logistics tuy có bước phát triển nhanh nhưng quy mô vẫn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, nhu cầu phát triển.

Nền kinh tế nước ta cơ bản vẫn gia công là phổ biến, phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu; doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số, manh mún.

Cơ cấu doanh nghiệp theo ngành kinh tế không hợp lý là rào cản rất lớn đối với xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp hỗ trợ. Cùng với đó, sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ, hạn chế doanh nghiệp Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Cơ cấu thành phần kinh tế thiếu cân đối, chưa thực sự vận hành theo cơ chế thị trường: Khu vực ngoài nhà nước mặc dù được khẳng định là động lực quan trọng nhưng quy mô nhỏ, manh mún, sức chống chịu yếu, khó tiếp cận vốn, công nghệ và thị trường; năng lực cạnh tranh thấp và chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đặc biệt vẫn còn tâm lý "không muốn lớn".

Khu vực FDI đóng góp quan trọng vào tăng trưởng và xuất khẩu nhưng chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp, thiếu liên kết với doanh nghiệp trong nước, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu ứng lan tỏa công nghệ, kỹ năng quản trị còn hạn chế.

Khu vực kinh tế nhà nước chưa xứng tầm với năng lực và tiềm năng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự đóng vai trò dẫn dắt; tiến trình tái cơ cấu và cổ phần hóa chậm so với mục tiêu.

Thiếu liên kết vùng thực chất, cơ chế điều phối hiệu quả chưa như kỳ vọng: Khoảng cách phát triển giữa các vùng còn lớn, kết cấu hạ tầng và liên kết vùng chưa đồng bộ, thiếu các trục động lực mạnh để lan tỏa. Nhiều địa phương, nhất là ở vùng miền núi, biên giới, vùng sâu vùng xa vẫn chưa theo kịp nhịp độ phát triển chung của cả nước, chưa tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị quốc gia.

Các vùng kinh tế trọng điểm được xác định từ sớm nhưng chưa thực sự vận hành theo cơ chế vùng, mà chủ yếu vẫn dựa trên ranh giới hành chính và lợi ích cục bộ của từng địa phương.

Các cực tăng trưởng quan trọng như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ được xác định là hạt nhân dẫn dắt nhưng chưa phát huy hết vai trò đầu tàu; tình trạng phát triển mất cân đối giữa các cực vẫn diễn ra, hạn chế tính lan tỏa và sức hút đầu tư.

Năng suất lao động và hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch chậm, thể chế chưa theo kịp yêu cầu phát triển: Mặc dù có cải thiện về NSLĐ và TFP song mức độ vẫn chưa theo kịp nhiều nước trong khu vực, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số tuy được thúc đẩy nhưng chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp lớn; đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có khả năng tham gia, dẫn tới khoảng cách số ngày càng lớn. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn mới ở giai đoạn khởi động, nhiều ngành vẫn dựa vào khai thác tài nguyên, tiêu hao năng lượng, phát thải cao.

Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế; khan hiếm lao động kỹ thuật cao, chưa đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chênh lệch về mức độ phát triển và mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi còn lớn, cho thấy tính bao trùm của tăng trưởng còn hạn chế.

Nền kinh tế vẫn phụ thuộc khá nhiều vào đầu tư công và vốn FDI, song hiệu quả đầu tư chưa như kỳ vọng, hệ số ICOR của nền kinh tế ở mức 7,6 của giai đoạn 2016-2020, tăng lên mức 8,5 giai đoạn 2021-2024; dư địa chính sách tài khóa, tiền tệ bị thu hẹp, ảnh hưởng tới khả năng chống chịu trước các cú sốc bên ngoài.

Những hạn chế nêu trên cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng tuy có tiến bộ nhưng chưa có tính đột phá, chưa tạo nền tảng để bứt phá trong giai đoạn tới. Chỉ khi nâng cao chất lượng tăng trưởng, Việt Nam mới thực sự vươn mình thành quốc gia hùng cường.

Những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng giai đoạn 2021-2025 không chỉ bắt nguồn từ các yếu tố khách quan mà còn xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa mang tính chủ quan và cấu trúc, như: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện; năng lực quản trị nhà nước về kinh tế còn hạn chế; cơ cấu doanh nghiệp trong nước bất hợp lý và phân mảnh; chất lượng nguồn nhân lực và khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; kết cấu hạ tầng và liên kết vùng chưa đồng bộ. Quản trị phát triển bền vững chưa được tập trung đúng mức. Việc chuyển sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo còn chậm do khung chính sách chưa đầy đủ, nhận thức và động lực thúc đẩy chưa rõ nét.

Tổng hòa các nguyên nhân trên cho thấy những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng không chỉ là vấn đề ngắn hạn mà bắt nguồn từ nút thắt mang tính thể chế, quản trị phát triển và tính cấu trúc. Đây là những vấn đề cốt yếu cần được tháo gỡ kịp thời, để xóa bỏ rào cản, tạo động lực để thực hiện mục tiêu bứt phá, phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.

Khuyến nghị về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng

Giai đoạn 2026-2030, kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn quyết định để tạo nền tảng cho bước nhảy vọt đến năm 2045. Trong giai đoạn này, kinh tế nước ta đối mặt với bốn lực cản, đồng thời cũng là bốn lực đẩy cần được nhận diện và tận dụng.

Đó là: Tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và xu hướng bảo hộ kinh tế, an ninh công nghệ sẽ mở ra cơ hội dịch chuyển đầu tư với những đòi hỏi chuẩn mực cao hơn về xuất xứ, an ninh dữ liệu và quản trị rủi ro; Chuyển đổi xanh, giảm phát thải sẽ định hình lại lợi thế so sánh - Cơ hội để chúng ta tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững, gia tăng giá trị thông qua chuyển đổi xanh, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, khuyến khích đổi mới sáng tạo, hình thành các ngành kinh tế mới, cùng với đó, giảm phát thải mở ra cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo động lực nâng cao chất lượng tăng trưởng; Làn sóng số hóa và ứng dụng trí tuệ nhân tạo mở ra cơ hội cạnh tranh công bằng trên nền tảng số; Dư địa nhân khẩu học đang thu hẹp, mở ra cơ hội tối ưu hóa nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng thể chế và nguyên tắc thị trường.

Đất nước không thể vươn tới thịnh vượng nếu cơ cấu kinh tế vận hành lạc nhịp với xu thế kinh tế thời đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng sẽ đẩy nhanh sự hình thành các ngành kinh tế có hàm lượng công nghệ và tri thức cao - động lực quan trọng nhất nâng cao NSLĐ; tạo dựng mạng lưới doanh nghiệp trong nước đủ năng lực tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu; thúc đẩy dịch chuyển lao động sang khu vực có năng suất cao hơn; chuyên nghiệp hóa dịch vụ công và hạ tầng số, giảm chi phí giao dịch toàn hệ thống.

Cùng với đó, bước sang thập niên phát triển mới, kinh tế nước ta cần thực hiện yêu cầu kép: duy trì tốc độ tăng trưởng cao và nâng cao chất lượng tăng trưởng; hướng tới phát triển bền vững và hiện đại.

Để đạt được yêu cầu kép này, trước tiên phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, quan điểm phát triển kinh tế, tư duy quản trị và điều hành đất nước. Cần khẳng định thị trường là công cụ chủ yếu phân bổ nguồn lực. Xây dựng Nhà nước pháp quyền giữ vai trò và có năng lực kiến tạo phát triển, điều tiết; tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược, quản trị hiệu quả phục vụ doanh nghiệp và nhân dân.

Tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới phải dựa vào đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xanh hóa, không đánh đổi môi trường và công bằng xã hội lấy tăng trưởng. Doanh nghiệp trong nước phải trở thành trung tâm đổi mới; các cực tăng trưởng và hành lang kinh tế là động lực lan tỏa phát triển liên vùng.

Cần làm gì để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng?

Để vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội của thời đại mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng không chỉ là lựa chọn, mà là con đường tất yếu.

Hiện nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới và thực tiễn của nền kinh tế nước ta các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng cần thực hiện theo phương châm lấy thị trường làm bộ máy phân bổ, doanh nghiệp làm trung tâm đổi mới, dữ liệu và năng lượng sạch làm hạ tầng mới, cực tăng trưởng làm đầu tàu để chuyển dịch từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững và có bản lĩnh Việt Nam. Theo đó, hơn lúc nào hết, cần tập trung thực hiện các nhóm giải pháp trọng tâm, quyết định đến tương lai phát triển của đất nước.

Đột phá về thể chế kinh tế thị trường hiện đại.Cần tháo gỡ "nút thắt thể chế" để nền kinh tế vận hành theo logic của thị trường; kiên quyết và khẩn trương loại bỏ cơ chế xin - cho, bảo đảm minh bạch, công bằng, cạnh tranh lành mạnh; đồng thời phát triển đồng bộ các thị trường nhân tố sản xuất để phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Không đổi mới thể chế, không thể có chuyển dịch cơ cấu bền vững.

Hoàn thiện hệ thống quản trị quốc gia hiện đại, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Cần nâng cao kỷ luật công vụ, xử lý nghiêm tình trạng thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức, đồng thời tăng cường ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, giám sát thực hiện chính sách. Xây dựng bộ máy công quyền thực sự kiến tạo, hành động vì lợi ích chung để cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng trưởng đạt chất lượng cao.

Nâng cao năng suất và chất lượng tăng trưởng.Chất lượng tăng trưởng phải được đo bằng năng suất, bằng hàm lượng công nghệ. Cần coi trọng, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xây dựng nền móng vững chắc để Việt Nam bứt phá về khoa học, công nghệ, độc lập, tự chủ trong phát triển, vươn tầm thế giới. Theo đó, cần xây dựng nền giáo dục dạy cách sáng tạo ra tri thức, chứ không chỉ học lại tri thức sẵn có. Đồng thời trang bị cho người học năng lực tự học, tự khám phá. Hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Phát triển kỹ năng số, kỹ năng xanh, thực hiện nghiên cứu và đổi mới sáng tạo là trụ cột.

Nhà nước thực hiện vai trò kiến tạo, hỗ trợ mạnh mẽ cho phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ để doanh nghiệp trở thành trung tâm đổi mới công nghệ, hoàn thiện phương thức sản xuất. Chất lượng tăng trưởng hôm nay sẽ quyết định vị thế Việt Nam ngày mai.

Phát triển doanh nghiệp dân tộc và khu vực kinh tế tư nhân.Doanh nghiệp là động lực, đồng thời là lực kéo của tăng trưởng. Do đó, cần chính sách tạo dựng, nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp dân tộc đủ sức cạnh tranh khu vực và toàn cầu, đồng thời tháo gỡ rào cản pháp lý, cắt giảm gánh nặng thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ, nâng quyền tự chủ và sáng tạo của doanh nghiệp.

Cộng đồng doanh nghiệp chủ động tái cấu trúc mô hình sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới; chủ động tham gia các chương trình đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp, kỹ năng sản xuất, ứng dụng trí tuệ nhân tạo; tối ưu hóa phương thức sản xuất kinh doanh; áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ xanh, giảm phát thải; mở rộng liên kết chuỗi giá trị; tăng cường hoạt động R&D để tạo ra hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Tái cơ cấu mạnh mẽ ngành kinh tế, vùng kinh tế. Cần tiếp tục tái cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại, gia tăng giá trị với trọng tâm xây dựng nền công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, gắn với chế biến sâu và thương hiệu quốc gia, cùng với phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng lớn. Tái cơ cấu ngành kinh tế theo hướng này sẽ tạo ra động lực mới, khắc phục tình trạng dịch vụ tăng nhưng thiếu nền tảng công nghiệp mạnh. Tái cơ cấu ngành kinh tế chỉ thực sự thành công khi thể chế thông thoáng, thị trường vận hành minh bạch và doanh nghiệp trở thành động lực trung tâm.

Bên cạnh đó, tái cơ cấu vùng kinh tế cần kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa mô hình cực tăng trưởng với liên kết vùng. Từ trung ương tới các địa phương cần khẩn trương hình thành các cực tăng trưởng quốc gia như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và tổ chức vận hành như các đầu tầu kinh tế; thiết kế liên kết vùng thực chất, đặc biệt về hạ tầng giao thông, logistics, năng lượng và thị trường lao động; xây dựng hệ thống đô thị - nông thôn gắn kết, hiện đại để nông thôn trở thành vành đai phát triển hỗ trợ đô thị. Liên kết vùng và phát triển các cực tăng trưởng chỉ thực sự thành công khi nguồn lực được tập trung, thể chế thông thoáng và cơ chế phối hợp được vận hành đồng bộ, hiệu quả.

Đổi mới quy hoạch và quản trị phát triển vùng dựa trên tư duy không gian kinh tế mở có tính liên kết và tích hợp cao, tránh tình trạng quy hoạch khép kín từng tỉnh, từng ngành gây lãng phí và cạnh tranh không lành mạnh. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền cho địa phương, đảm bảo trách nhiệm giải trình trong triển khai chính sách.

Xanh hóa nền kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, phát triển thị trường carbon. Đẩy mạnh xanh hóa nền kinh tế, phát triển năng lượng tái tạo, thiết lập thị trường carbon. Thực hiện mô hình tăng trưởng xanh, phát thải thấp sẽ tạo lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu ưu tiên phát triển bền vững.

Đồng thời xây dựng và vận hành hiệu quả thị trường carbon trong nước, tạo động lực cho doanh nghiệp giảm phát thải, qua đó đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các dòng vốn xanh, thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng là sự kết hợp và thực thi đồng thời giữa đổi mới thể chế - hiện đại hóa công nghiệp - chuyển đổi số - xanh hóa - phát triển con người và doanh nghiệp. Thể chế thông thoáng, thị trường vận hành minh bạch, doanh nghiệp lớn mạnh chính là nền tảng tăng trưởng bền vững.

Tóm lại, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng cần phải dựa trên cơ chế vận hành, công cụ chính sách và thước đo kết quả cụ thể với kiến trúc chính sách nhất quán. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng không chỉ là yêu cầu kỹ thuật trong quản trị vĩ mô và yêu cầu trước mắt, mà là yêu cầu khách quan, con đường tất yếu, sự lựa chọn chiến lược, chìa khóa mở ra tương lai của dân tộc đang bước vào giai đoạn phát triển mới, khẳng định vị thế vững chắc của đất nước trong thế kỷ XXI./.

Nguyễn Bích Lâm

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Nguồn Chính Phủ: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/chuyen-dich-co-cau-kinh-te-va-nang-cao-chat-luong-tang-truong-chia-khoa-cho-thinh-vuong-quoc-gia-119250901191451405.htm