Thúc đẩy tín dụng, phải chảy đúng chỗ
Trong nửa đầu năm 2025, những tín hiệu tích cực từ thị trường tín dụng cho thấy dòng chảy vốn đang được khơi thông mạnh mẽ, nhằm tạo đà phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Ảnh minh họa.
Nguy cơ cho “vùng đệm an toàn”
Tính đến ngày 30-6-2025, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2024. Ước tính hệ thống NH đã bơm thêm ra nền kinh tế gần 1,6 triệu tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2025.
Trước đó, vào cuối quý I-2025, có tới 16/28 NH ghi nhận tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi (LDR) tăng cao so với đầu năm, trong đó một số NH đã vượt ngưỡng 100%, đồng nghĩa với việc cho vay vượt quá lượng tiền huy động được.
Xét về tổng thể, thanh khoản hệ thống vẫn được đảm bảo. Hệ số an toàn vốn (CAR) và tỷ lệ LDR toàn hệ thống vẫn nằm trong giới hạn quy định, một số NH lớn còn nhiều dư địa huy động, và NHNN vẫn điều hành linh hoạt thông qua các công cụ thị trường mở (OMO).
Tuy nhiên, tình trạng chênh lệch kéo dài giữa tăng trưởng tín dụng (TTTD) và huy động vốn, đang tiềm ẩn nguy cơ bào mòn "vùng đệm an toàn" của hệ thống. Điều này có thể khiến các NH dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc từ bên ngoài như biến động tỷ giá, áp lực lạm phát hoặc làn sóng rút vốn bất ngờ.
Trước áp lực điều tiết tài chính, các nhà băng đã ồ ạt phát hành trái phiếu trong thời gian gần đây, để vừa cân đối nguồn vốn trung và dài hạn, vừa giảm áp lực thanh khoản cũng như bổ sung vốn cấp 2 để tăng hệ số CAR. Song, việc phát hành quá nhiều trái phiếu cũng tạo áp lực đáo hạn trong tương lai.
Thêm vào đó, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP liên tục tăng qua các năm. Năm 2021 là 113,2%, năm 2022 hơn 125%, năm 2023 khoảng 130%, năm 2024 là 134%. Tỷ lệ dư nợ tín dụng toàn hệ thống so với GDP danh nghĩa ngày càng tăng, phản ánh mối liên kết chặt chẽ giữa TTTD và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Điều này cũng cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay NH. Khả năng tích lũy nội lực để giảm dần đòn bẩy tài chính là quá trình dài hơi và còn nhiều thách thức.
Về bản chất, trong một nền kinh tế phát triển lành mạnh và bền vững, nguồn vốn không nên phụ thuộc quá lớn vào khu vực NH. Thay vào đó, thị trường vốn, bao gồm trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu và quỹ đầu tư mới là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn chủ đạo.
Trong khi đó, tại Việt Nam, NH vẫn đang đảm nhận vai trò chính yếu trong cung cấp cả vốn ngắn và dài hạn, khiến hệ thống đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn.
Không phải ngẫu nhiên mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và NH Thế giới (World Bank) nhiều lần cảnh báo khi tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ở mức quá cao.
Điều họ lo ngại không chỉ là quy mô, mà còn là cấu trúc nguồn vốn có tới 70-80% vốn huy động trong hệ thống NH là ngắn hạn (dưới 12 tháng), trong khi phần lớn tín dụng lại là trung và dài hạn. Khi NH sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, đến kỳ đáo hạn, nếu khách hàng rút tiền mà NH chưa thu hồi được các khoản vay trung, dài hạn, họ buộc phải huy động nguồn vốn mới để trả cho người gửi cũ.
Điều này khiến NH rơi vào vòng xoáy vay - trả liên tục và dễ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, đặc biệt nếu thị trường vốn đầu vào gặp khó khăn.
Bơm vốn phải đúng chỗ
Theo nghiên cứu của ông Trần Ngọc Báu, CEO Công ty Dữ liệu kinh tế tài chính WiGroup, từ đầu năm 2024 đến nay, tốc độ TTTD đổ vào khu vực sản xuất gần như chững lại, trong khi TTTD vào khu vực thương mại, vận tải và viễn thông đi ngang trong khoảng 18-19%.
Tín dụng đẩy vào khu vực khác, chủ yếu là tiêu dùng và bất động sản, tăng trưởng rất mạnh, chạm mốc kỷ lục trong nhiều năm qua. Hiện tiêu dùng đang khó khăn, suy ra tín dụng đang chảy vào bất động sản và xây dựng.
Trong khi đó, cấu trúc nguồn vốn vay của các công ty bất động sản tổng hợp trên sàn chứng khoán Việt Nam trước đây là 60%, chủ yếu đến từ huy động trái phiếu, nhưng hiện nay nguồn nợ này giảm mạnh, tổng giá trị trái phiếu lưu hành đã giảm từ 600.000 tỷ đồng xuống còn khoảng hơn 100.000 tỷ đồng. Khi họ giảm vay trái phiếu, đồng nghĩa với việc họ phải vay NH để đảo lại phần đó.
Ông Trần Ngọc Báu cho biết, với mô hình hiện nay, muốn tăng trưởng GDP phải thực hiện kích cung và kích cầu. Kích cung có thể thực hiện ở một số khu vực như bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi và sản xuất.
Kích cầu có 3 nguồn là từ hộ gia đình, từ Chính phủ và từ nước ngoài. Nhưng hiện nay, xuất khẩu đang có vấn đề thuế quan rất khó đoán định. Cầu từ Chính phủ đang cố gắng thúc đẩy, còn hộ gia đình có xu hướng co hẹp chi tiêu.
Do vậy khu vực sản xuất không thể nhanh chóng kích thích được. Trong ngắn hạn, gần như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy chính sách vào bất động sản và tài sản tài chính, qua đó kích hoạt chi tiêu của hộ gia đình.
Nhưng nếu trong 2-3 năm tới không chuyển dịch được từ bất động sản và tài sản tài chính sang khu vực sản xuất và tiêu dùng hộ gia đình, kịch bản như năm 2022 rất dễ lặp lại, tín dụng tăng mạnh vào cuối 2021, đầu 2022 rồi sau đó sụp đổ.
Với bối cảnh hiện nay, các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc mở van tín dụng là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng, song vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở lượng tiền được bơm ra bao nhiêu, mà là dòng tiền đó có đi đúng chỗ những khu vực, những doanh nghiệp có năng lực hay không.
Nếu dòng vốn chỉ dồn vào các lĩnh vực phi sản xuất, tài sản đầu cơ, hoặc tiêu dùng không thiết yếu, tăng trưởng có thể chỉ là “ảo”, còn hệ lụy sẽ là thật. Việc bơm vốn quá nhanh mà thiếu kiểm soát và định hướng sẽ khiến cấu trúc dòng vốn bị méo mó, rủi ro chất lượng tín dụng gia tăng, đồng thời tạo sức ép lên lạm phát, tỷ giá.
Ở thời điểm hiện tại, áp lực lạm phát trong 6 tháng đầu năm 2025 không quá lớn, mặc dù cao hơn mức trung bình của giai đoạn 2015-2024, song nhiều khả năng cung tiền sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa trong nửa cuối năm có thể gây sức ép lên giá cả trong thời gian tới.
NHNN phải tiếp tục đóng vai trò “người giữ nhịp” thận trọng, linh hoạt. Mở nhưng có kiểm soát, tăng nhưng phải chọn lọc. Đó là cách duy trì động lực tăng trưởng mà vẫn bảo đảm an toàn hệ thống, ổn định vĩ mô trung và dài hạn.
Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/thuc-day-tin-dung-phai-chay-dung-cho-post124428.html