Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập và phát triển học tập suốt đời
Thảo luận tại tổ chiều 22/10 về các dự án luật trong lĩnh vực giáo dục, đại biểu Quốc hội nhấn mạnh sự cần thiết của các cơ chế thông thoáng và mạnh mẽ để huy động nguồn lực ngoài ngân sách cho giáo dục; làm rõ cơ chế tài chính trong chi cho cơ sở giáo dục đại học hay bảo đảm tính độc lập, minh bạch trong quy trình thẩm định sách giáo khoa.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi:
Cần có cơ chế đủ thoáng, đủ mạnh và dễ thực hiện để huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục
Đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, đề nghị rà soát, bổ sung, làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước và các cơ sở giáo dục. Tùy theo cấp độ của mối quan hệ này để trao quyền tự chủ nhiều hơn, gắn liền với trách nhiệm giải trình. Càng về bậc đại học thì việc trao quyền càng phải rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn. Dự thảo Luật chưa thể hiện rõ nét và chưa đầy đủ, do vậy, cần tiếp tục rà soát, bổ sung.

Ảnh: T. Thành
Dự thảo Luật cũng cần bổ sung nhiều cơ chế dễ thực hiện và mạnh mẽ hơn nữa nhằm khuyến khích sự hợp tác giữa cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và với doanh nghiệp. Chúng ta không thể dùng duy nhất nguồn lực của ngân sách để phát triển giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học mà phải huy động nguồn lực to lớn hơn ngoài ngân sách. Vì thế, cần phải có những cơ chế đủ thoáng, đủ mạnh và dễ thực hiện trong mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục, đào tạo với thị trường, cụ thể là doanh nghiệp.
Các nghị quyết của Đảng đã đề cập đến nhiệm vụ thúc đẩy chủ trương xây dựng xã hội học tập và phát triển học tập suốt đời. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa thể hiện nội dung này; chưa nghiên cứu, tiếp thu mô hình “học tập suốt đời” trên thế giới. Chúng ta nên tiếp thu những ý chính để làm sao chúng ta từng bước thể chế hóa tư tưởng “học tập suốt đời”. Việc này không phải chỉ nhằm chia sẻ nguồn lực cho ngành giáo dục - đào tạo mà còn góp phần phát huy truyền thống hiếu học, hình thành năng lượng mới trong sức mạnh truyền thống này.
ĐBQH Bùi Thị Quỳnh Thơ (Hà Tĩnh):
Cần làm rõ cơ chế tài chính chi cho cơ sở giáo dục đại học

Ảnh: P. Thủy
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 38 dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định: “Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học được phân bổ cho cơ sở giáo dục đại học dựa trên sứ mệnh, chất lượng, hiệu quả theo cơ chế thống nhất trong toàn hệ thống”. Trong khi Điều 38 dự thảo Luật quy định về cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, không phân định cơ chế tài chính đối với cơ sở công lập và ngoài công lập. Do vậy, cần làm rõ nội dung chi này.
Thực tế các cơ sở giáo dục đại học tự xây dựng sứ mệnh, tầm nhìn. Các sứ mệnh, tầm nhìn này nhiều khi vượt quá khả năng sẵn có của cơ sở giáo dục đại học. Vì vậy vấn đề chất lượng, hiệu quả được xác định như thế nào khi nhận sự phân bổ từ ngân sách nhà nước? Vấn đề này áp dụng cho cơ sở giáo dục đại học công lập đã mang tính định tính, khó xác định. Vậy cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập áp dụng như thế nào?
Bên cạnh đó, tại điểm a, khoản 2, Điều 38 dự thảo Luật quy định: ngân sách nhà nước bảo đảm hoặc hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực trong một số ngành, lĩnh vực theo cơ chế “Bảo đảm kinh phí cho đào tạo giáo viên, nhân lực nghệ thuật, thể thao và các ngành thuộc lĩnh vực ưu tiên, đặc thù theo quy định của Chính phủ”.
Quy định tại dự thảo Luật chưa bảo đảm tính bao quát, do chỉ đề cập đến việc bảo đảm kinh phí đào tạo nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật, thể thao. Mặt khác, đối với các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, hoạt động đào tạo các ngành này phụ thuộc vào nhu cầu thị trường và không sử dụng ngân sách nhà nước. Do đó, đề nghị chỉnh lý theo hướng: ngân sách nhà nước chỉ bảo đảm kinh phí đào tạo đối với giáo viên, nhân lực làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc các ngành trong lĩnh vực ưu tiên theo quy định của Chính phủ.
Ngoài ra, điểm a, khoản 3, Điều 38 dự thảo Luật quy định Chính phủ quy định chi tiết nội dung “Mức trần học phí và phương pháp xác định học phí theo nguyên tắc đủ bù đắp chi phí, có tích lũy hợp lý, gắn với chất lượng đào tạo” (bao gồm cả cơ sở giáo dục đại học công lập và ngoài công lập). Và khoản 1, Điều 40 dự thảo Luật quy định “Cơ sở giáo dục đại học tư thục được thực hiện quyền tự chủ tài chính, tự chủ quyết định mức thu, chi...”.
Các quy định này có thể dẫn đến mâu thuẫn, khó khăn trong triển khai thực hiện khi vừa quy định mức trần học phí do Chính phủ quy định nhưng các cơ sở giáo dục đại học tư thục lại được tự quyết định mức thu (bao gồm cả học phí). Do vậy, cần nghiên cứu, chỉnh lý để bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện.
ĐBQH Ma Thị Thúy (Tuyên Quang):
Bảo đảm tính độc lập, minh bạch trong quy trình thẩm định sách giáo khoa

Ảnh: T. Chi
Tại khoản 8, Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đã có quy định sửa đổi, bổ sung Điều 32 của Luật hiện hành về sách giáo khoa giáo dục phổ thông và tài liệu giáo dục địa phương. Tôi đồng tình với chủ trương Nhà nước cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất trên phạm vi toàn quốc, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi - nơi điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên còn hạn chế.
Dự thảo Luật đưa ra quy định Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa là hợp lý. Tuy nhiên, cần có quy định bảo đảm tính độc lập, minh bạch trong quy trình thẩm định, tránh tình trạng vừa “quản lý” vừa “thẩm định”. Có tiêu chuẩn rõ ràng cho thành viên hội đồng, ưu tiên đội ngũ chuyên gia, nhà giáo giàu kinh nghiệm, không có lợi ích liên quan đến các nhà xuất bản. Nên bổ sung quy định về công khai kết quả thẩm định và lấy ý kiến rộng rãi từ cơ sở - nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Dự thảo Luật trao thẩm quyền cho UBND tỉnh phê duyệt tài liệu giáo dục địa phương thay vì Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây. Điều này phù hợp với chủ trương phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động của địa phương. Tuy nhiên, để tránh chồng chéo và bảo đảm chất lượng, cần quy định rõ giới hạn nội dung tài liệu giáo dục địa phương chỉ nhằm giáo dục về lịch sử, văn hóa, địa lý, kinh tế - xã hội đặc thù của địa phương; không trùng lặp, không thay thế sách giáo khoa quốc gia. Đồng thời, bổ sung quy định Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung hướng dẫn thống nhất về cấu trúc, nội dung và phương pháp biên soạn tài liệu địa phương.
Cùng với đó, đề nghị tăng cường thẩm định độc lập và kiểm tra định kỳ việc sử dụng tài liệu giáo dục địa phương, tránh để nội dung mang tính địa phương chủ nghĩa, sai lệch hoặc gây hiểu nhầm lịch sử - văn hóa.