Thuế và phí đang chiếm hơn 1/4 doanh thu của doanh nghiệp khai khoáng?

Đại diện Công ty Vật liệu công nghệ cao Masan (Masan High-Tech Materials, mã: MHT) cho rằng, trong bối cảnh Nhà nước đang đẩy mạnh chiến lược phát triển ngành khoáng sản theo hướng chế biến sâu, nhiều chính sách tài chính và thủ tục hiện hành vẫn chưa theo kịp thực tiễn sản xuất. Những vướng mắc về thuế, phí và cấp quyền khai thác đang khiến doanh nghiệp gặp khó, ảnh hưởng đến khả năng đầu tư, mở rộng và gia tăng giá trị cho nguồn tài nguyên quốc gia.

Doanh nghiệp lo ngại với nhiều loại thuế phí

Theo ước tính của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn, đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc.

Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp khai khoáng còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về thuế, phí và thủ tục hành chính. Chia sẻ tại Hội thảo Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản sáng 15/10, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng giám đốc Công ty Masan High-Tech Materials (mã: MHT) cho biết, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển ngành khoáng sản theo hướng hiện đại, song điều này chỉ có thể đạt được nếu chính sách tài chính và cơ chế quản lý thực sự thông thoáng.

Ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng giám đốc Công ty Masan High-Tech Materials (MHT). Ảnh: M.T.

Ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng giám đốc Công ty Masan High-Tech Materials (MHT). Ảnh: M.T.

Ông cho biết: “Hiện nay cứ mỗi 5 năm một lần, doanh nghiệp lại phải thực hiện quy trình chứng minh lại năng lực công nghệ cao, gây tốn kém thời gian và thủ tục hành chính. Cùng với đó, hệ thống thuế và phí hiện nay đang tạo ra nhiều áp lực cho doanh nghiệp. Khi bắt đầu đầu tư vào năm 2010, thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu chỉ ở mức dưới 10%. Tuy nhiên, sau khi dự án đi vào vận hành, các sắc thuế này đã tăng mạnh, có loại từ 6% lên 25% - khiến kế hoạch tài chính bị đảo lộn''.

Bên cạnh đó, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, một chính sách được ban hành sau khi dự án đã được phê duyệt đầu tư cũng là một trong những trở ngại. “Hiện mỗi năm chúng tôi phải đóng hơn 160 tỷ đồng tiền cấp quyền, tương đương 1.600 tỷ đồng trong 10 năm, gây áp lực lớn lên dòng tiền và hiệu quả đầu tư”, đại diện MHT chia sẻ.

Ngoài ra, phí bảo vệ môi trường phát sinh sau khi dự án đi vào hoạt động cũng làm giảm sức hấp dẫn của các dự án khai thác. Một bất cập khác là 2 loại thuế: Thuế tài nguyên và Tiền cấp quyền đều đánh vào cùng một đối tượng, cùng cách tính và phương pháp thu, dẫn đến trùng lặp.

"Theo tính toán, tổng các loại thuế và phí hiện chiếm tới 24 - 26% doanh thu của doanh nghiệp, chưa kể thuế thu nhập doanh nghiệp", đại diện MHT nhấn mạnh.

Theo doanh nghiệp, thuế suất tài nguyên của Việt Nam hiện ở mức cao, trong khi giá tính thuế và sản lượng tính thuế chưa phản ánh đúng thực tế sản xuất chế biến sâu. Luật hiện hành chủ yếu quy chiếu theo quặng nguyên khai, khiến mỗi địa phương hiểu và áp dụng khác nhau, gây tốn kém nguồn lực xã hội. Đơn cử, với sản phẩm wolfram, thuế suất tại Việt Nam đang là 20%, trong khi Trung Quốc, quốc gia kiểm soát nguồn cung wolfram lớn nhất thế giới, chỉ áp dụng mức 6,5%. Với sản phẩm đồng, thuế suất Việt Nam là 15%, còn tại nhiều nước khác chỉ khoảng 7,5%. Mức chênh lệch này khiến sản phẩm Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Ông Thắng cũng nhấn mạnh rằng, thực trạng này không chỉ riêng MHT gặp phải mà là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp trong ngành khai khoáng, khiến không ít đơn vị e ngại khi đầu tư vào lĩnh vực này.

Chế biến sâu đang là hướng đi của ngành khoáng sản trong thời kỳ mới. Ảnh: MHT.

Chế biến sâu đang là hướng đi của ngành khoáng sản trong thời kỳ mới. Ảnh: MHT.

Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu trước khi khai thác khiến thực tế có nhiều bất cập

Trao đổi thêm với phóng viên, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế) cho rằng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản hiện nay thực hiện nghĩa vụ thuế tương tự như các doanh nghiệp khác trong xã hội. Tuy nhiên, do sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên - vốn là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý - nên ngoài các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật thuế hiện hành, họ còn phải thực hiện các nghĩa vụ bổ sung theo Luật Địa chất và Khoáng sản.

Cụ thể, doanh nghiệp phải nộp “tiền cấp quyền khai thác khoáng sản”, được hiểu là khoản người khai thác phải trả cho Nhà nước khi sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia cho mục đích kinh doanh.

Ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia thuế. Ảnh: M.T.

Ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia thuế. Ảnh: M.T.

Bên cạnh đó, để có mặt bằng khai thác, doanh nghiệp cũng phải thuê đất của Nhà nước, nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và các khoản phí liên quan. Khi sản phẩm khoáng sản được tiêu thụ trong nước, doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) như các đơn vị sản xuất, kinh doanh thông thường. Tuy nhiên, đối với hàng hóa khoáng sản xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ không được hoàn thuế giá trị gia tăng, do chính sách hiện hành nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô và bảo vệ nguồn tài nguyên trong nước. "Điều này khiến khoản thuế đầu vào không được khấu trừ, trở thành chi phí thực tế của doanh nghiệp, một gánh nặng đáng kể đối với ngành khai thác và chế biến khoáng sản", ông Phụng cho hay.

Cũng theo vị này, định hướng chung của Nhà nước là bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên khoáng sản, nên mức thuế suất hiện hành tương đối cao. Tuy vậy, quy định hiện nay vẫn chưa phân định rõ ràng giữa các cấp độ chế biến sâu, chế biến vừa hay sơ chế khoáng sản, dẫn đến thực tế mức thuế giữa các nhóm này còn chênh lệch chưa đáng kể. Nhiều doanh nghiệp cho rằng điều này chưa phản ánh đúng thực tiễn sản xuất và mức độ đầu tư vào chế biến sâu. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra bất cập khi tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên có cùng cơ sở tính toán, đều dựa trên sản lượng, giá tính thuế và tỷ lệ phần trăm thu.

Đáng chú ý, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu trước khi khai thác, khiến doanh nghiệp phải ứng vốn sớm dựa trên trữ lượng và chất lượng địa chất ước tính. Sau mỗi năm, doanh nghiệp phải quyết toán lại dựa trên sản lượng thực tế, vừa tốn thời gian thủ tục, vừa gây áp lực tài chính.

"Đây là vấn đề được nhiều doanh nghiệp kiến nghị cần xem xét, điều chỉnh nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Ngân sách Nhà nước cần có nguồn thu ổn định, nhưng đồng thời doanh nghiệp cũng phải có điều kiện duy trì sản xuất, tạo việc làm và lợi nhuận hợp lý. Thực tế cho thấy, có doanh nghiệp như Masan đang phải nộp tổng nghĩa vụ thuế, phí và tiền cấp quyền chiếm tới 24 - 26% doanh thu, một tỷ lệ rất lớn", vị chuyên gia đánh giá.

Cần cải cách thuế, phí để khai thác hiệu quả tài nguyên và thúc đẩy chế biến sâu

Từ thực tế đó, Phó Tổng giám đốc MHT kiến nghị các cơ quan quản lý cần tăng cường tham vấn doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính sách. Bởi hiện nay, việc tham vấn chưa phản ánh đúng thực tế sản xuất. Cụ thể, doanh nghiệp kiến nghị xem xét gộp tiền cấp quyền và thuế tài nguyên thành một khoản hợp lý hơn, đồng thời điều chỉnh mức thuế suất tham chiếu theo chuẩn quốc tế, dao động trong khoảng 3 - 8% doanh thu, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu.

Về thuế xuất khẩu, doanh nghiệp đồng tình với chủ trương hạn chế xuất khẩu thô, song cho rằng cần phân biệt rõ sản phẩm tinh chế. “Nếu chính sách thuế, phí được điều chỉnh hợp lý, doanh nghiệp chế biến sâu sẽ có thêm động lực mở rộng sản xuất, tạo ra giá trị gia tăng cao và đóng góp nhiều hơn cho ngân sách Nhà nước", ông Thắng nói thêm.

Còn theo chuyên gia thuế Nguyễn Văn Phụng, chính sách thuế và phí trong lĩnh vực khoáng sản cần được rà soát, điều chỉnh phù hợp để vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ, tăng trưởng bền vững. Đặc biệt, với những mỏ có hàm lượng khoáng sản thấp hoặc chưa đủ điều kiện công nghệ để chế biến hiệu quả, Nhà nước cần có chính sách linh hoạt, chẳng hạn giảm phí bảo vệ môi trường, giãn thời hạn nộp tiền cấp quyền khai thác nhằm tránh lãng phí tài nguyên và tạo điều kiện cho các thế hệ sau khai thác hiệu quả hơn khi khoa học - công nghệ phát triển.

Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách thuế và phí trong lĩnh vực khoáng sản không chỉ giúp doanh nghiệp ổn định hoạt động, mà còn góp phần quản lý, bảo vệ tốt hơn nguồn tài nguyên quốc gia, tài sản chung của đất nước.

Trang Mai

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/thue-va-phi-dang-chiem-hon-14-doanh-thu-cua-doanh-nghiep-khai-khoang.html