Thuốc điều trị vảy nến ở phụ nữ mang thai và cho con bú
Bệnh vảy nến là bệnh viêm mạn tính, không chỉ gây tổn thương ở da mà khi tiến triển sẽ dẫn tới tiến trình viêm hệ thống. Ở những trường hợp đặc biệt như phụ nữ mang thai, cho con bú việc điều trị sẽ trở nên phức tạp hơn.
1. Điều trị bệnh vảy nến ở phụ nữ có thai
Ở phụ nữ mắc bệnh vảy nến, khi mang thai sẽ có tác động qua lại với bệnh lý này. Có trường hợp sẽ làm bệnh giảm đi nhiều (40-60%), ngược lại cũng có trường hợp nặng lên (10-20%) và trường hợp bệnh ổn định (20-30%).
Nếu phụ nữ mang thai mắc bệnh vảy nến thể nặng lên có tỷ lệ sinh non, con nhẹ cân cao gấp 1,5 lần bình thường. Do đó, trước khi mang thai, cần điều trị bệnh ổn định và tránh các đợt bùng phát bệnh trong suốt thai kỳ. Nếu trường hợp bệnh bùng phát trong thai kỳ, bác sĩ sẽ dựa tình trạng mắc bệnh kê đơn điều trị phù hợp.

Cần lưu ý khi dùng thuốc ở phụ nữ mang thai.
Các thuốc bôi ngoài da
- Kem dưỡng ẩm:Ở phụ nữ mang thai, các loại kem dưỡng ẩm được bác sĩ chỉ định là an toàn. Loại kem này giúp làm mềm da, tránh các vết xây xước, kích ứng gây xuất hiện tổn thương mới. Người bệnh thoa kem dưỡng ẩm thường xuyên, hằng ngày, đầy đủ theo hướng dẫn của bác sĩ
- Corticoid: Đối với những trường hợp cần sử dụng corticoid bôi tại chỗ, nên dùng loại nhẹ đến trung bình và chỉ nên dùng thuốc trong thời gian ngắn để đạt được hiệu quả. Mặc dù chưa tìm thấy bằng chứng liên quan đến tăng các nguy cơ bất lợi cho thai nhi, nhưng thuốc có thể làm tăng các vết rạn da cho mẹ. Không nên dùng corticoid loại mạnh và tránh bôi thuốc trên diện rộng hoặc quá kéo dài.
Liệu pháp ánh sáng
Nếu bệnh nhân không đáp ứng với thuốc bôi, bác sĩ sẽ chỉ định liệu pháp ánh sáng thay thế, thường sử dụng nhất là chiếu tia UVB dải hẹp hoặc dải rộng.
Tác dụng phụ thường gặp của phương pháp này là gây đỏ da, bỏng rát sau 1-2 ngày điều trị. Tình trạng này tuy không đáng kể, nhưng bệnh nhân cũng nên trao đổi với bác sĩ để điều chỉnh liều chiếu.

Bệnh vảy nến gây ra tình trạng khó chịu cho bệnh nhân.
Thuốc sinh học
Biện pháp này không dùng thường quy cho phụ nữ mang thai, bác sĩ sẽ phải cân nhắc kỹ trước khi kê đơn cho bệnh nhân. Thuốc sinh học kháng TNF-α như adalimumab, etanercept, infliximab được cho là khá an toàn cho phụ nữ mang thai. Tuy nhiên vẫn có tỷ lệ đi qua nhau thai, đặc biệt là ở 3 tháng cuối thai kỳ và có thể phát hiện trong máu của trẻ sơ sinh vài tháng hoặc nhiều năm sau sinh.
2. Điều trị bệnh vảy nến ở phụ nữ cho con bú
Thuốc bôi tại chỗ
Cũng là lựa chọn đầu tiên, bao gồm kem dưỡng ẩm và steroid hoạt lực nhẹ và trung bình. Các thuốc corticoid, calcipotriol, tacrolimus có thể sử dụng, tuy nhiên cần tránh vị trí tiếp xúc trực tiếp khi cho con bú. Với mức độ trung bình, nặng, liệu pháp ánh sáng có thể được chỉ định và khá an toàn.
Thuốc toàn thân
Các thuốc đường dùng toàn thân cổ điển nên tránh dùng vì qua sữa mẹ, nếu phải uống thuốc thì nên cai sữa cho con. Các thuốc sinh học đến nay vẫn còn rất ít dữ liệu ở phụ nữ mang thai. Một số nghiên cứu cho thấy, nồng độ thuốc trong huyết thanh ở trẻ bú mẹ điều trị thuốc sinh học rất thấp . Tuy nhiên vẫn cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ khi điều trị thuốc sinh học.
Việc điều trị kiểm soát vảy nến ở phụ nữ mang thai và cho con bú rất phức tạp, bởi không chỉ cần kiểm soát bệnh cho người mẹ mà phải bảo đảm không ảnh hưởng tới em bé. Do đó cần sự có phối hợp chặt chẽ giữa bác sĩ da liễu, bác sĩ sản khoa, bác sĩ nhi khoa… để đạt được đích điều trị tối ưu. Bệnh nhân cần tuân thủ chặt chẽ phác đồ điều trị, đồng thời thực hiện chế độ ăn uống, nghỉ ngơi phù hợp, tránh căng thẳng và hạn chế tối đa các yếu tố gây bùng phát vảy nến...
BS. Hoàng Văn Tâm chia sẻ về sai lầm khi điều trị bệnh vảy nến. Video: D.Hải