Tích hợp tri thức Hán Nôm trong văn du ký Bắc Ninh nửa đầu thế kỷ XX

Trong tổng thành dòng văn du ký viết về Bắc Ninh có một bộ phận tác giả đã dụng công sưu tầm, ghi chép tư liệu thư tịch và tri thức Hán Nôm liên quan đến các danh nhân, sự kiện lịch sử, di tích văn hóa, đền chùa, nhà thờ và nguồn sách tư gia.

Hệ thống tư liệu này bao quát các câu đối và sắc phong, trích dẫn kinh sách và sử liệu; tên người, địa danh và điển tích, điển cố; tên tác phẩm, niên hiệu các triều đại và thế thứ can chi; liệt truyện danh thần và danh nho, thơ văn Hán Nôm cổ và kim; kể cả việc dẫn dụng ngữ liệu Hán Nôm qua hình thức phiên âm Quốc ngữ cũng như việc ký chú thêm chữ Hán mà vì điều kiện kỹ thuật nên tạm lược giản ở lần in này. Có thể thấy tác giả loại du ký này thường là thế hệ khoa bảng, nho sĩ cựu trào, có vốn tri thức Hán Nôm phong phú, thiên về du ký biên khảo, chú trọng kiến văn lịch sử, văn hóa cổ truyền và phong tục tập quán địa phương.

 Nắng sớm chùa Bút Tháp. Ảnh Vương Lộc.

Nắng sớm chùa Bút Tháp. Ảnh Vương Lộc.

In đậm văn hóa Hán Nôm trong dòng văn du ký viết về Bắc Ninh chính là nhà Hán học Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục với du ký "Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh" thể hiện dấu ấn rõ nét ngay từ cách đặt nhan đề, dụng câu đặt chữ, dùng nhiều từ ngữ cổ, kiểu như “duy về sự cảm tưởng”, “ký giả cũng không phải là con nhà sinh trưởng an lạc”, “muốn chơi cho phỉ”, “cái thân nửa lâm toàn, nửa thành thị, nửa thung dung vô sự, nửa đàm tiếu phong trần”, “ba ngày chơi tỉnh Bắc Ninh, há có cái vui thú đặc biệt gì, mà phải phiền đến làm văn để ký sự đó hay sao?” (Nam Phong tạp chí, 1925). Mở rộng hơn là việc thường xuyên liên hệ, so sánh, sử dụng nhiều thành ngữ, điển tích cổ, kiểu như: “tôi thuở thiếu thời theo bậc phụ chấp, bậc huynh trưởng, các bậc nho nhã phong lưu, vào nghe những giọng Xích Bích, Tỳ Bà ở đó”, “Mà ngạn ngôn lại có câu rằng: Lạng phủ thục, thiên hạ túc. Nghĩa là phủ Lạng được mùa thì thiên hạ no nê”, “thiên hạ về lúc thanh hoàng (giáp hạt)”, “chẳng qua luyến luyến cố nhân chi ý đó thôi”, “cách nay đã ngoại ba mươi năm - Tam thập niên hồi thủ sự hà như”, “Cố nhân, cố nhân, ước gì non sông cố nhân cứ trẻ mãi, cảnh sắc cố nhân cứ đẹp mãi, thì ký giả mong lắm!”…; cho đến năm bảy lần tác giả dẫn thơ cổ, tập cổ, phỏng dịch và trổ tài làm thơ với đủ nguyên văn chữ Hán:

“Nhân câu kỷ sự rằng:

Túy xã điêu linh tận,

Cô ngâm khứ độc tinh.

Tương khan lưỡng bất yếm,

Duy hữu Bắc Ninh thành.

Cũng là lối phỏng cổ, phỏng câu thơ Kính Đình sơn của Lý Thái Bạch mà điểm xuyết ra vài chữ để kỷ sự đó thôi”...

Với học giả Nguyễn Trọng Thuật, tâm thức chuộng cổ văn đã in dấu ngay trong những trang mở đầu du ký Thăm lăng Sĩ Vương, kể từ cách nhận thức, lý giải, tôn vinh bậc “Nam Giao học tổ” thỏa đáng lý tình, bảo đảm tính lịch sử cụ thể: “Chủ nhân hiệu là Sĩ Vương, tên là Nhiếp, sinh ở làng Quảng Tín, tỉnh Quảng Đông. Bấy giờ Quảng Đông còn là đất bản bộ của ta, tiên tổ người nước Lỗ vì tránh loạn Vương Mãnh mà sang ở đấy, nên sử nói là “tránh loạn sang ở nước Việt ta”. Đến Vương là sáu đời. Thế thì Vương tức là người nước ta vậy. Đối với nước ta, Vương có hai cái lịch sử vẻ vang là lịch sử chính trị với lịch sử giáo hóa”…; cho đến việc miêu tả kiến trúc đền theo lối cổ và thói quen đọc, thẩm định, ghi chép câu đối chữ Hán: “Toàn bộ nơi đó, rộng ước hơn một mẫu, trước là miếu sau là rừng, lăng ở giữa rừng. Chúng tôi vào miếu trước, có hai tầng cửa: Tầng ngoài là hai bức tường gạch và hai cột đồng trụ; tầng trong là cái cửa khải hoàn môn cao lớn, xây đắp trông cũng nhã, hai cánh cửa lim, thượng sơ hạ mật, trạm chênh bong rất kỹ, mưa nắng đã ủi màu gỗ. Hỏi ra là cái vật trùng tu trong mươi năm nay. Hai mặt cổng khải hoàn môn có nhiều câu đối, chúng tôi muốn biên một vài câu làm kỷ niệm mà không thể kham được một câu nào. Qua cửa ấy thì đến một cái sân gạch rộng, tả hữu mỗi bên có một cái giải vũ nhỏ rồi đến một cái giải vũ to thì tới cái điện chính năm gian. Trước cửa điện xây bịt để ba cửa tò vò, trên để ba cái khung bảng, nhưng xem làm đã lâu mà sao lại mới trát vôi từ đường gờ trở xuống, còn ba khung bảng thì vẫn trơ gạch, vào trong điện thì cũng như cái đình tế thường của các làng, có hương án, đồ thờ và bức hoành bốn chữ “Nam Giao học tổ”. Có mấy đôi câu đối gỗ để thờ đã lâu, nhưng chữ nghĩa cũng thường cả. Lại vào hậu cung. Bấy giờ chỉ có bốn chúng tôi là khách lạ, không có ai để hỏi. Cửa cung đóng chặt coi ra cẩn nghiêm lắm. Ở đấy có một đôi câu đối gỗ đã lâu, nghĩa xuất sắc hơn cả. Chúng tôi bèn biên lấy:

"Hướng vi tự tích thi thư giáo

An hữu như kim văn hiến truyền". (Nam Phong tạp chí, 1932).

Có thể nói nhiều phế tích văn bia, đình chùa, đền miếu nhờ việc ghi chép, tích hợp hệ thống hoành phi, câu đối trong các trang văn du ký này mà con người hôm nay có thể khôi phục, tái tạo, tái lập lại di sản xa xưa.

Vẫn là Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật trong "Thăm tìm dấu cũ - Chùa Bút Tháp, lăng Kinh Dương Vương" vừa miêu tả chi tiết kiến trúc chùa cổ: “Kiểu chùa này như hình chữ “đồ”, đây là kể cả những nền hành lang cũ, trước cửa chùa trông ra, cái tam quan là nét ngang dưới cùng, cùng với ba mặt hành lang liền nhau, hai bên và đằng sau là cái khung vuông chữ “đồ”, hai dãy hành lang hai bên, nay đã đổ mất non nửa, chỉ còn mỗi bên 27 gian mà thôi; dãy sau thì 9 gian. Còn lầu nhà ở trong là những nét ở phần trong chữ “đồ”. Qua tam quan đến cái gác chuông, trên gác thờ tượng Đế Thích và treo chuông. Qua gác chuông đến tiền đường, lại qua một cái nhà cầu và hai cái giải vũ thì đến thượng điện chỗ thờ Phật. Thượng điện mở cửa hậu, trên cửa có cái động, ở cửa động đi bậc đá xuống thì đến cái lầu “Cửu phẩm liên đài”, lại cách đó một cái sân nhỏ thì đến cái cung thờ hai Công chúa họ Trịnh. Trong tam quan có biển đề dọc ba chữ “Đệ nhất sơn”. Từ tam quan đến cái cung, thể thế đều sảng khải hơn các chùa, ba mặt sau của thượng điện đều xây hè đá cao, lại có câu lơn đá chạm con giống”, vừa ghi chép dấu tích lăng Kinh Dương Vương tối cổ cũng như tinh thần sùng cổ cuối thời phong kiến và cập nhật những sự chuyển hóa, giao thoa, biến đổi đương thời: “Lăng ở ngay bên chân đê, mé bờ sông Thiên Đức, địa phận làng Á Lữ, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh. Trên một cái bạt có lơ thơ vài cây gạo nhỏ, có một cái bia đá đề bốn chữ to “Kinh Dương Vương lăng”, bên cạnh có dòng chữ nhỏ “Minh Mệnh nhị thập nhất niên sắc kiến” (Vua ban sắc lập lăng này là năm Minh mệnh 21). Nhà bia xây thành cái bệ gạch nhỏ và bốn bức tường con như kiểu cái cây hương của nhà thường dân. Hai cột đồng trụ thì mới bị bão đánh, cành gạo đổ làm gẫy lây. Xung quanh lăng, họ lấy đất đắp để đào thành hố trũng sâu hoắm. Người làng nói, ở đấy trước là một cái miếu lớn, nhiều cây cối um tùm. Chiều tối kẻ nhát gan một mình không dám vào. Từ năm đắp đê mới này, bọn thầu đê cho phu chặt cây phá bụi làm củi, dân làng giữ không được, nên bây giờ mới quang đi như thế này”; từng bước lý giải, chỉ rõ những đặc thù và sự biến thiên trong việc thờ các vị quốc tổ anh linh: “Duy ngày xưa gọi nước là thiên hạ, chưa có chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, đối với Kinh Dương Vương, Hùng Vương, triều đình chỉ coi là những vị cổ đế vương mà không nhận là những đấng quốc tổ gây dựng đất nước giống nòi, nên mỗi triều nhớ đến ban tế đã là hậu lắm rồi. Mà ban tế như thế không phải là vì nước cảm ơn mà chính là cầu để âm phủ cho triều đình đó thôi. Còn dân làng thì nhân có dấu cũ bèn thờ làm vị thành hoàng của một làng, không can hệ gì đến làng khác…

Họ Hồng Bàng bắt đầu khai thác từ miền thượng du sông Hồng Hà, đất rộng ra đến 15 bộ, đời thứ ba Hùng Vương định đô ở Phong Châu, nay là tỉnh Phú Thọ. Làng Á Lữ này đối với Phú Thọ cũng không xa gì thì lăng đức Kinh Dương Vương ở đây cũng không lấy gì làm lạ”, đồng thời nhấn mạnh những biến thiên của thời cuộc và giới hạn tư duy thôn làng tiểu nông khép kín, phân mảnh, cát cứ đã phần nào hạn chế tầm biểu tượng quốc gia, dân tộc: “Xét như vậy thì dấu di hài của đức quốc tổ đệ nhất khai thác ra đất nước này, truyền dõi cho con cháu hai mươi triệu ngày nay là ở đây thật. Thế thì nắm đất này là một nơi thiêng liêng quý báu của chúng ta biết là dường nào! Mà sở dĩ giữ gìn được như thế là nhờ ở làng Á Lữ này. Từ thời đại bị Bắc thuộc, non sông nghiêng đổ, cơ đồ tan nát, thì riêng làng này người ta vẫn giữ gìn, phụng sự chốn tôn lăng này. Đến hồi lập quốc, các triều vua mới biết đến, ghi vào tự điển và dâng lễ quốc tế, trừ lao dịch cho làng để quét dọn chốn tôn lăng. Như vậy thì người Việt Nam cũng không phải là toàn mọi rợ hay vong bản cả đâu. Chỉ vì cái tính cẩu thả, cái lượng hẹp hòi, biết đến rồi thì cũng lại chỉ coi như di phần của một vị cổ đế vương thường, gọi là đã có tỏ chút lòng kính mến thì thôi. Còn phó mặc cho chỗ thôn quê cứ tòng tục cúng tế. Nên ngày nay mới đến cái nông nỗi thê lương, tiều tụy như thế này” (Nam Phong tạp chí, 1934)…

Nhìn chung, lối văn du ký viết về Bắc Ninh thiên về du khảo in đậm phong cách văn hóa giai đoạn giao thời Cận - Hiện đại, Hán Nôm - Quốc ngữ và cũng đặc trưng cho chi lưu dòng văn du ký biên khảo nửa đầu thế kỷ XX. Vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XX cho đến nay, người viết du ký hầu như không còn trích đoạn và ký chú thêm cả chữ Hán như thế nữa. Hiện thực thời đại mới trên tinh thần giao thoa Đông - Tây và xu thế hiện đại hóa, hội nhập, phát triển đã thúc đẩy dòng văn du ký nói chung và văn du ký viết về xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh chuyển sang trang mới…

La Nguyễn Hữu Sơn

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/tich-hop-tri-thuc-han-nom-trong-van-du-ky-bac-ninh-nua-dau-the-ky-xx-postid433078.bbg