Tiềm năng hàng tỷ USD từ kinh tế biển

Việt Nam sở hữu vùng biển rộng lớn mở ra cơ hội phát triển kinh tế biển với giá trị hàng tỷ USD từ năng lượng tái tạo, nuôi biển công nghệ cao và dịch vụ biển chất lượng.

Vùng 'đất vàng' cho điện gió và nuôi biển quy mô lớn

Chia sẻ tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 2025 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 12/12, ông Lê Mạnh Cường, Phó Tổng giám đốc Petrovietnam, nhấn mạnh tiềm năng khổng lồ của vùng biển Việt Nam. Với diện tích vùng biển và đáy biển gấp 3 lần diện tích đất liền, tuy nhiên, nếu chúng ta không khai thác hiệu quả không gian biển này, rất khó thúc đẩy kinh tế trong tương lai.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2025, chiều 12/12. Ảnh: NNVN

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2025, chiều 12/12. Ảnh: NNVN

Ngành dầu khí được xem là minh chứng điển hình cho việc phát triển kinh tế biển từ con số “0” nhờ chiến lược dài hạn, đầu tư bài bản và nỗ lực làm chủ công nghệ. Tuy nhiên, các ngành kinh tế biển khác như khai thác khoáng sản biển và tài nguyên trầm tích sâu đòi hỏi công nghệ tiên tiến và lộ trình phát triển riêng, để khai thác bền vững nguồn lợi biển.

Về chính sách, ông Cường khẳng định vai trò then chốt của các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, giúp thu hút nguồn lực quốc tế, đồng thời tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng.

Tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam là rất lớn. Theo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam đặt mục tiêu đạt 6 - 17 GW công suất điện gió ngoài khơi vào giai đoạn 2030-2035 và 113 - 139 GW vào năm 2050. Đây sẽ là ngành công nghiệp mới quy mô lớn, tạo việc làm, tăng cường an ninh năng lượng và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Ông Mark Hutchinson, Chủ tịch Nhóm công tác Đông Nam Á, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC), đánh giá đây là bước tiến quan trọng, đồng thời nhấn mạnh việc bảo đảm vốn cho các dự án là nhiệm vụ cấp thiết. Theo ước tính, một dự án điện gió ngoài khơi 500 MW đầu tiên tại Việt Nam có chi phí khoảng 2 tỷ USD, với tổng mức đầu tư dự kiến cho 6 GW lên tới 24 tỷ USD.

Ông Hutchinson đề xuất cần xác định rõ các rủi ro và phân bổ trách nhiệm giữa Chính phủ, EVN, nhà phát triển, ngân hàng và các bên liên quan. Việc này sẽ giúp giảm chi phí tài chính, đảm bảo giá điện ngoài khơi ở mức thấp nhất và thu hút các nguồn vốn quốc tế. GWEC cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam thu hút hàng tỷ USD cần thiết cho phát triển điện gió ngoài khơi.

Bên cạnh năng lượng, nuôi biển công nghiệp được nhận định là giải pháp đột phá để đưa ngành nuôi biển Việt Nam thoát khỏi tình trạng manh mún và lạc hậu. PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, phân tích: Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 đảo và vùng đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km². Chỉ cần sử dụng 0,1% diện tích biển, chúng ta đã có 1.000 km² nuôi, cho sản lượng tới 10 triệu tấn cá biển mỗi năm, chưa kể hải sản khác.

Tuy nhiên, hiện nay nghề nuôi biển vẫn dựa vào kinh nghiệm truyền thống, công nghệ lạc hậu, trại nuôi phải “né” sóng gió, bão; thiếu chuỗi liên kết và chưa có tiêu chuẩn đồng bộ. PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, chỉ thay đổi vật liệu lồng không đủ, cần một mô hình tổ chức sản xuất mới – cụm công nghiệp nuôi biển.

Mô hình này là các khu vực sản xuất tập trung, được Nhà nước đầu tư hạ tầng, sau đó cho doanh nghiệp, hợp tác xã và ngư dân thuê để sản xuất. Cách làm này giúp hình thành ngành nuôi biển quy mô lớn, thu hút ngư dân vươn ra xa bờ. Đồng thời, xây dựng chuỗi giá trị ổn định, tích hợp nuôi biển với du lịch, điện gió ngoài khơi và các lĩnh vực kinh tế biển khác. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam kiến nghị xây dựng hệ thống cụm công nghiệp nuôi biển tại 21 tỉnh ven biển, giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường làm đầu mối quản lý, ưu tiên quỹ đất và mặt biển, rà soát chính sách đầu tư, tài chính, bảo hiểm, công nghệ, đào tạo và chế biến, cùng việc ban hành tiêu chuẩn và định mức kinh tế – kỹ thuật cho nuôi biển công nghiệp.

Hướng tới hệ sinh thái kinh tế biển hiện đại

Việt Nam sở hữu hơn 1 triệu km² vùng biển cùng nguồn tài nguyên biển phong phú, tạo lợi thế vượt trội để phát triển kinh tế biển.

Các không gian phát triển mới mở ra từ khoa học - công nghệ biển, năng lượng tái tạo ngoài khơi, dữ liệu đại dương và các ngành dịch vụ biển chất lượng cao. Song song với đó, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức lớn như suy giảm tài nguyên, tác động ngày càng tinh vi của biến đổi khí hậu, cùng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực nuôi biển công nghệ cao kết hợp du lịch. Ảnh:NNVN

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực nuôi biển công nghệ cao kết hợp du lịch. Ảnh:NNVN

Tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Chính Phủ Trần Hồng Hà nhấn mạnh các vấn đề biển mang tính liên vùng, liên quốc gia. Theo đó, ô nhiễm biển, suy thoái hệ sinh thái, axit hóa đại dương, rác thải nhựa và biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi hợp tác quốc tế. Việt Nam và các nước đang phát triển còn hạn chế công nghệ chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và năng lượng tái tạo biển. Vì vậy, cơ chế chia sẻ công nghệ và chuyển giao sáng chế trong khuôn khổ Liên hợp quốc là cần thiết.

Phó Thủ tướng cũng đề cập tới tín chỉ carbon từ biển, nhấn mạnh cơ chế giám sát minh bạch toàn cầu, đảm bảo công bằng trong tiếp cận. Đồng thời đặc biệt lưu ý tiềm năng nuôi biển công nghệ cao kết hợp du lịch và điện gió ngoài khơi với tổng tiềm năng trên 600 GW, cần triển khai thí điểm, nghiên cứu chuyển đổi năng lượng gió thành hydrogen hoặc amoniac xanh để giải quyết bài toán hạ tầng và truyền tải.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: NNVN

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: NNVN

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nhấn mạnh, trên cơ sở trao đổi và phân tích, diễn đàn thống nhất định hướng xây dựng hệ sinh thái kinh tế biển hiện đại. Hệ sinh thái này sẽ vận hành dựa trên nền tảng thể chế, chính sách, khoa học - công nghệ, hạ tầng và nguồn nhân lực được thiết kế đồng bộ, liên kết chặt chẽ.

Từ đó, 4 định hướng trọng tâm được xác định. Thứ nhất, tổ chức lại không gian phát triển kinh tế biển theo hướng hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, phù hợp đặc thù từng vùng biển và từng địa phương, đồng thời tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, phát triển mạnh các ngành kinh tế biển mới có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là năng lượng tái tạo ngoài khơi, dịch vụ logistics biển, công nghiệp công nghệ cao ven biển, thị trường tín chỉ carbon, nuôi biển công nghệ cao, kinh tế tuần hoàn và du lịch biển chất lượng cao.

Thứ ba, xây dựng thể chế quản lý biển hiện đại dựa trên dữ liệu, gắn với việc thúc đẩy liên kết vùng ven biển nhằm đảm bảo phát triển bền vững lâu dài.

Thứ tư, khuyến khích và phát huy vai trò của khu vực tư nhân thông qua môi trường đầu tư minh bạch, ổn định và thuận lợi.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, các kết quả của diễn đàn sẽ sớm được cụ thể hóa trong các chương trình hành động. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban Chính sách Chiến lược Trung ương, các bộ, ngành và địa phương để triển khai đồng bộ các nhiệm vụ tiếp theo.

Trong năm 2026, Bộ dự kiến trình Chính phủ và Quốc hội sửa đổi Luật Tài nguyên, Môi trường biển và Hải đảo, một bước đi quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đồng thời, Bộ sẽ tiến hành tổng kết Nghị quyết 36 của Ban Chấp hành Trung ương để đánh giá kết quả và điều chỉnh chính sách phù hợp với định hướng phát triển kinh tế biển hiện đại.

Dù tiềm năng là rất lớn, song theo GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, kinh tế biển phải gắn với bảo vệ môi trường. Ngay từ bước điều tra, thăm dò, cần tính đến tác động sinh thái. Doanh nghiệp cần vận hành theo hướng kinh tế tuần hoàn, carbon thấp, với Nhà nước đầu tư dữ liệu điều tra cơ bản, doanh nghiệp đầu tư thăm dò, khai thác, cùng phối hợp tạo nền tảng dữ liệu biển quốc gia, “bản sao số” không gian biển Việt Nam.

Nguyễn Hạnh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/tiem-nang-hang-ty-usd-tu-kinh-te-bien-434542.html