Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng

Vua Nguyễn Thánh Tổ, tên thật Nguyễn Phúc Hiệu, tự Phúc Đảm, là con thứ tư của vua Gia Long, sinh năm 1791, lên ngôi năm 1820 với niên hiệu Minh Mệnh (1820–1841). Ông trị vì 21 năm, nổi tiếng là vị vua cần mẫn, chú trọng quản lý triều chính và xây dựng đất nước, đạt nhiều thành tựu quan trọng. Một trong những điểm nổi bật thời Minh Mệnh là sự phong phú về tiền tệ, cả về loại hình lẫn số lượng lưu hành. Ngay từ năm đầu tiên (1820), nhà vua đã cho đúc tiền 'Minh Mệnh thông bảo' 6 phân bằng đồng và kẽm. Việc chế tạo tuân thủ quy chuẩn chặt chẽ về tỷ lệ hợp kim và quy trình sản xuất, đảm bảo số lượng tiền lưu thông và tiền công cho thợ đúc. Tiền đồng Minh Mệnh thông bảo có 4 chữ nổi '明命通寳' ở mặt trước theo lối Chân thư, chữ to, nét rõ, mặt sau trơn, vành viền nổi. Đồng tiền khá mỏng, đường kính khoảng 22,4–25,8mm, dày 1mm, nặng 2,5–3,8g. Đây là minh chứng cho sự chú ý của vua Minh Mệnh trong việc quản lý kinh tế và phát triển đất nước, tạo tiền đề cho một hệ thống tiền tệ ổn định và chuẩn mực hơn.

Vua Nguyễn Thánh Tổ có tên là Nguyễn Phúc Hiệu, tự là Phúc Đảm, con thứ tư của vua Gia Long, sinh năm Tân Hợi (1791), nối ngôi tháng Chạp năm Kỷ Mão (đầu năm 1820), niên hiệu là Minh Mệnh (1820-1841).

Vua Minh Mệnh trị vì đất nước khá dài (1820-1841). Đây là vị vua chăm lo tới công việc triều chính, chú ý đến xây dựng đất nước và đạt được nhiều thành tựu hơn cả. Dưới đời vua Minh Mệnh, tiền tệ phong phú về thể loại và số lượng được lưu thông trên thị trường.

a. Tiền đồng

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, đúc năm Minh Mệnh thứ nhất (1820)

“Canh Thìn, Minh Mệnh năm thứ nhất [1820],..Tháng 2..Bắt đầu đúc tiền “Minh Mệnh thông bảo” 6 phân bằng đồng và bằng kẽm, sai lấy mẫu tiền gửi cho cục Bảo tuyền ở Bắc Thành theo đúng phép mà đúc. Định lệ tiền công liệu (Cứ trong 100 cân đồng kẽm thì có 49 cân đồng đỏ, 45 cân kẽm, 6 cân chì; đúc thành tiền đồng 37 quan 8 tiền, cấp tiền công liệu 5 quan 5 tiền 33 đồng 6 phân 2 ly. Mỗi 100 cân kẽm đúc thành tiền kẽm 41 quan, cấp tiền công liệu 3 quan 4 tiền 21 đồng 6 phân 5 ly).

Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, được đặt tên là do đường kính và trọng lượng tiền quy định chứ không phải lưng có chữ “Lục phân” -六分 như ở tiền Gia Long. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寳 theo kiểu Chân thư. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên trước và sau đều nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 22,4 - 25,8mm, dày 1mm, nặng 2,5 - 3,8gr.

Ảnh 1.11.9. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân, chữ “Thông” - 通 đầu vuông

Ảnh 1.11.9. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân, chữ “Thông” - 通 đầu vuông

 Ảnh 1.11.10.Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân, chữ “Thông” - 通 đầu tam giác.

Ảnh 1.11.10.Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân, chữ “Thông” - 通 đầu tam giác.

Năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3 (1822), nhà vua lại cho đúc tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, nguyên liệu là dùng tiền ngụy hiệu [của Tây Sơn] nấu lại để đúc với quy định “Đúc hạng tiền đồng 6 phân thì cứ mỗi 100 cân dùng tiền đồng ngụy hiệu 52 cân, khối đồng đỏ 27 cân, kẽm 20 cân 14 lạng, thiếc 2 lạng).

Tiền này tới năm Ất Dậu (1825) thì bãi bỏ nhưng tiền kẽm thì vẫn dùng như cũ.

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 9 phân, đúc năm 1825

“Ất Dậu, năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), tháng 5,…Bắt đầu đúc tiền đồng nặng 9 phân. Trước kia một đồng tiền lấy nặng 6 phân làm chuẩn. Vua sai đúc xen tiền nặng 1 đồng cân. Hữu ty có nhiều người nói giá đồng đắt mà đúc tiền nặng, nhà nước không có lợi. Vua nói: “Nhà nước trị tài có đạo, sao lại so đo từng tý! Vả tiền mỏng thì dễ hỏng, sao bằng đúc cho dày nặng để lợi dài lâu, đằng nào lợi hơn? Bèn định một đồng tiền nặng 9 phân, sai Vũ Khố chế mẫu ban cho trường Đúc tiền ở Kinh cùng cục Bảo tuyền Bắc Thành để đúc, mà bãi bỏ tiền 6 phân. Tiền kẽm thì dùng 6 phân như cũ. Rồi định phép đúc lẫn đồng và kẽm (Nếu lấy tiền ngụy mà đúc thì mỗi 100 cân dùng tiền ngụy 90 cân, đồng đỏ một khối 5 cân, và kẽm 5 cân, nếu lấy tiền cổ nhà Thanh mà đúc thì mỗi 100 cân dùng tiền Thanh 98 cân, kẽm 2 cân, nếu lấy nồi đồng mà đúc thì mỗi 100 cân dùng nồi đồng 49 cân, kẽm 49 cân, chì 2 cân”.

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”-明命通寳 theo kiểu Chân thư. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên trước và sau đều nổi rõ. Đường kính 25mm, dày 1mm, nặng 3,2gr

 Ảnh 1.11.11. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, nặng 9 phân, đk 25mm

Ảnh 1.11.11. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, nặng 9 phân, đk 25mm

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 có hai mặt chữ

Đồng này do lỗi kỹ thuật, 2 mặt đều đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寳 theo kiểu Chân thư. Nguyên do là người thợ dùng 2 mang khuôn đều là mang mặt trước mà không dùng khuôn lưng. Tiền có đường kính 22mm, dày 1mm, nặng 2,5gr.

Ảnh 1.11.12. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư hai mặt chữ.

Ảnh 1.11.12. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư hai mặt chữ.

Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Tiền kẽm

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-doi-vua-nguyen-thanh-to-1820-1841-ky-i-tien-dong-169825.html