Tiếng nói từ bản làng (Bài 2): Ổn canh, an cư, yên biên giới
Chỉ một vài năm trở lại đây, hình ảnh mái nhà tranh tre xiêu vẹo ở các xã biên giới xứ Thanh đã nhường chỗ cho những mái ấm kiên cố từ các chương trình, dự án... Trên triền đồi, dưới thung sâu, nương thuốc phiện năm nào giờ chỉ còn trong ký ức, thay bằng màu xanh bạt ngàn cây ngô, cây sắn... Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước bằng những chính sách kịp thời đã giải quyết mong mỏi của bà con, ổn canh - an cư - yên biên giới!

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Trung Lý giúp người dân dựng nhà theo Chỉ thị 22. Ảnh: Đình Giang
Đổi thay ở vùng đất "chết"
Trong căn nhà sàn kiên cố, già làng Hơ Chứ Hơ, ở bản Cá Nọi, xã Pù Nhi chậm rãi rót chén nước lá rừng mời tôi sau nhiều năm có dịp gặp lại. Nay sức khỏe già Hơ đã yếu hơn, nhưng đôi mắt thì vẫn ngời sáng khi nhắc về những đổi thay đang hiện hữu trên mảnh đất từng được gọi là “thủ phủ” thuốc phiện, là vùng đất “chết” năm nào. “Giờ thì khác rồi! Chẳng còn cảnh nhà nhà trồng anh túc, người người nghiện thuốc phiện như trước nữa. Thay vào đó, bà con có ruộng lúa, nương ngô, đồi sắn, giúp cái bụng được no, cái đầu được sáng”, già Hơ nhìn về những thửa ruộng bậc thang xanh mướt phía đằng xa nói.
Già kể, trước khi cây anh túc bị xóa sổ, ở các xã biên giới như Nhi Sơn, Pù Nhi đâu đâu cũng bạt ngàn sắc tím của loài cây chết người này. Thậm chí, nhiều gia đình coi thuốc phiện là “cái ăn, cái mặc”. Cũng bởi vậy, khi Đảng và Nhà nước chủ trương xóa bỏ loại cây này, không ít bà con đã phản ứng một cách dữ dội. Già nhớ rõ, từng cuộc họp dân, từng kiến nghị gắt gao từ bà con, rằng: “Nếu bỏ cây anh túc thì trồng cây gì để cái bụng không đói"? Câu hỏi tưởng đơn thuần ấy lại là nỗi trăn trở, và là nguyên nhân cho “cuộc chiến” xóa bỏ cây anh túc trở nên dai dẳng hơn.
Năm 1993, Nghị quyết 06 của Chính phủ, rồi tiếp sau đó là Chỉ thị 06 năm 1996 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đánh dấu bước ngoặt trong “cuộc chiến” với cây thuốc phiện. Cuộc chiến ấy không chỉ trên nương, trên rẫy, mà còn diễn ra trong từng nếp nghĩ, nếp sống của đồng bào Mông nơi đây. “Để xóa bỏ cây anh túc, nếu không có cây trồng thay thế thì rất khó. Và quả thực, phải đến khi những chương trình, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách trồng rừng, giữ rừng, giao khoán rừng... đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, lúc ấy “cuộc chiến” với cây anh túc mới đi đến hồi kết.
Câu chuyện “trồng cây gì, nuôi con gì” ở dải đất vùng biên chưa bao giờ là điều dễ dàng. Ông Hà Văn Ca, Bí thư Đảng ủy xã Trung Lý từng nói về Đề án trồng xoan với kỳ vọng mở ra hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp cho các xã biên giới nơi đây. Chủ trương là vậy, thế nhưng đất đai cằn cỗi, khí hậu vùng biên khắc nghiệt, thiếu vốn và kỹ thuật khiến cho cây xoan sinh trưởng kém, sâu bệnh, gãy đổ... Hơn 10 năm sau thực hiện đề án trồng xoan thì người dân buộc phải chặt bỏ, trồng cây thay thế. Rồi đến đề án về phát triển cây đào, cây mận. Một thời du nhập giống từ Sơn La về, kỳ vọng tạo sản phẩm đặc trưng, nhưng rồi trồng hàng loạt, khi thu hoạch thì lại thiếu thị trường tiêu thụ, đào, mận chín rụng đỏ gốc, người dân chặt bỏ... Những đề án thất bại, để lại nhiều bài học. Không thể nóng vội, càng không thể áp đặt một loại cây trồng lên vùng đất chưa được khảo sát kỹ lưỡng về các điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và quan trọng là đầu ra. Từ thực tế đó, việc công bố bản đồ thổ nhưỡng mới đây dành cho các xã biên giới thuộc huyện Mường Lát cũ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó như “chiếc chìa khóa” giúp chính quyền và người dân biết rõ vùng nào trồng lúa, vùng nào hợp với cây sắn, cây ngô; vùng nào có thể phát triển chăn nuôi... Cũng chính việc xác định rõ được “nút thắt” đó, mà việc các xã vùng biên ký kết hợp tác trồng sắn với Công ty CP Sản xuất chế biến nông - lâm sản và Vật tư nông nghiệp Phúc Thịnh được xem là một trong những hướng đi mới, bền vững. Việc liên kết sẽ được công ty đầu tư giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật, ký hợp đồng bao tiêu... Giờ thì cây sắn đã, đang trở thành cây trồng chủ lực, phát triển bền vững, góp phần “xóa đói, giảm nghèo”. Thống kê cho thấy, diện tích sắn ở các xã vùng biên (thuộc huyện Mường Lát cũ) lên tới gần 3.000ha, tổng giá trị thu về mỗi niên vụ lên tới hơn 80 tỷ đồng.
Già Hơ Chứ Hơ phấn khởi, khi có thời điểm sắn được mùa, được giá, như niên vụ 2023-2024, lần đầu tiên có những hộ nghèo của bản thu nhập lên tới cả trăm triệu đồng. Niềm vui của già Hơ tôi cảm nhận rõ, không chỉ có cây sắn, mà trên mảnh đất từng là “thủ phủ” thuốc phiện này, giờ đây còn có thêm nhiều cây trồng mới như cây trẩu, cây lát; rồi cây đào, cây mận khi tìm được thị trường đầu ra, lại đang bén rễ, phủ xanh những triền đồi đất trống. “Ngày trước, khói thuốc phiện phủ mờ bản làng, làm u ám cả núi rừng. Giờ thì khác rồi, khói bếp với hương sắn, ngô bay lên, báo hiệu cho sự no đủ. Người Mông tin rằng, khi cái bụng đã no, cái đầu sẽ sáng, con cháu có cái chữ sẽ có cái nghề, biên giới sẽ an yên”, đó là niềm tin của già Hơ khi hướng ánh mắt về dãy Pù Ngùa kỳ vĩ.
An cư, yên biên giới
Dọc theo những dãy núi, triền đồi dựng đứng, phía dưới là con suối hung hãn, những căn nhà đánh cược vào mùa lũ ở các xã vùng biên nơi đây đang thưa thớt dần. Sự đổi thay ấy là niềm vui, bởi sau những mùa lũ, những ngôi nhà bị cuốn trôi, những khu tái định cư mới tập trung được hình thành. Sự đổi thay ấy thấy rõ ở bản Poọng, xã Tam Chung. Nhắc đến bản vùng lũ này, hẳn nhiều người còn chưa hết bàng hoàng về nỗi đau để lại sau đận lũ năm 2018. Lũ quét càn qua bản, cuốn đi nhà cửa, nương rẫy, để lại bản làng xác xơ. Giờ đây, trong căn nhà sàn khang trang truyền thống của người Thái, trưởng bản Vi Văn Thuật không giấu được niềm vui, nói: “Bản Poọng giờ đã hồi sinh. Bà con không chỉ được ở trong những ngôi nhà kiên cố, mà đời sống kinh tế cũng dần khởi sắc”. Về kinh tế, bà con bản Poọng đã khôi phục, duy trì 15,5ha đất lúa; hơn 30ha đất trồng hoa màu, ngô, sắn; tổng đàn bò 251 con, đàn trâu 88 con; bản cũng có 30 người đi làm ăn xa, đi xuất khẩu lao động; 100% trẻ đi học đúng độ tuổi; thu nhập bình quân đầu người ở bản Poọng đã đạt 25 triệu đồng/năm. Hiện cả bản có 46 hộ kinh tế khá giả; chỉ còn 34 hộ nghèo, 12 hộ cận nghèo... Bản Poọng cũng đặt ra mục tiêu phấn đấu xa hơn, là bản NTM kiểu mẫu.
Không gánh chịu thiệt hại nặng nề từ bão lũ như bản Poọng, thế nhưng với bà con người Mông ở bản Ón, khu vực giáp biên với nước bạn Lào, một bản có 113 hộ thì 110 hộ nghèo, 3 hộ cận nghèo. Nếu không được Nhà nước đầu tư khu tái định cư tập trung thì có lẽ, hàng chục hộ dân của bản chưa biết bao giờ mới có thể xây dựng được căn nhà mới để ở. Bí thư chi bộ Giàng A Chống trần tình: “Từ lâu đồng bào Mông đã có tập quán sống trên núi cao, những nơi biệt lập. Cũng chính vì vậy, nguy cơ sạt lở luôn rình rập, việc giao thương với bên ngoài vô cùng khó khăn”. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, khu tái định cư tập trung cho 42 hộ dân vùng nguy cơ cao ảnh hưởng của thiên tai được triển khai, bà con phấn khởi lắm. Nơi ở mới, cuộc sống của bà con không chỉ an toàn tính mạng, tài sản mỗi mùa mưa lũ, mà còn thuận lợi hơn trong đi lại, giao lưu, làm ăn".
Đó là câu chuyện của bản Poọng, bản Ón (xã Tam Chung), còn đối với các xã vùng biên khác, vốn là địa bàn dễ bị tổn thương, ảnh hưởng của thiên tai, đời sống của bà con đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí thấp, nhiều hủ tục tồn tại... thì việc để người dân tự thân có thể xây dựng cho mình một căn nhà kiên cố trước mưa bão, vươn lên trong cuộc sống, có lẽ là “bài toán” chưa biết đến bao giờ mới giải được. Bên cạnh những khu tái định cư được đầu tư tập trung từ nguồn vốn ngân sách, thì sự chung tay từ các tổ chức, đoàn thể; các nhà hảo tâm là vô cùng ý nghĩa. Có thể kể đến dự án 600 căn nhà của Bộ Công an dành cho các xã của huyện Mường Lát cũ. Đặc biệt là Chỉ thị số 22-CT/TU ngày 30/3/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về Cuộc vận động hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách và hộ còn khó khăn về nhà ở trong 2 năm 2024-2025 (gọi tắt là Chỉ thị số 22), đã giúp cho hàng chục nghìn hộ dân có được mái ấm kiên cố, an toàn.
Cơn bão số 5 vừa qua, bà Lương Thị Hồm, ở bản Táo, xã Trung Lý mới thấy hết ý nghĩa, vai trò của căn nhà mới kiên cố được xây từ nguồn vốn Chỉ thị 22. Bà Hồm cảm ơn Đảng, Nhà nước đã quan tâm, hỗ trợ, để bà có được căn nhà mới. Nếu không có sự hỗ trợ kịp thời ấy, có lẽ căn nhà cũ tuềnh toàng, lụp xụp của gia đình bà đã không thể đứng vững trước cơn bão vừa qua. Bà Hồm tâm sự: “Lúc đầu gia đình được xã đưa vào danh sách để được hỗ trợ làm nhà theo Chỉ thị 22, số tiền hỗ trợ là 80 triệu đồng. Song, giữa thời bão giá vật liệu xây dựng, nhân công đắt đỏ, để xây được căn nhà hoàn thiện, ước tính phải hơn 150 triệu đồng. Số tiền còn lại với gia đình là quá sức, cũng đã tính nước từ bỏ ước mơ. Song, chính trong lúc đắn đo ấy, sự động viên của chính quyền, sự hỗ trợ ngày công của cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng, giờ đây các thành viên trong gia đình đã có mái ấm an toàn. Đó cũng là động lực để gia đình phát triển sản xuất, chăn nuôi, mục tiêu sớm thoát diện hộ nghèo”.
Giữa những đổi thay nơi vùng biên viễn, khi những con đường mới đã mở lối vào bản, câu chuyện về “ổn canh, an cư” lại được đặt trong một ý nghĩa lớn hơn, đó là giữ gìn sự bình yên nơi phên dậu của Tổ quốc. Thiếu tá Quản Đình Thao, Chính trị viên phó Đồn Biên phòng Trung Lý, chia sẻ: “Đối với đồng bào Mông nói riêng và bà con vùng biên nói chung, khi đã có đường, có đất canh tác ổn định, có nhà cửa để an cư thì cuộc sống dần bớt khó khăn, bà con sẽ yên tâm bám bản, bám đất. “Ổn canh, an cư” không chỉ là điều kiện để người dân phát triển sinh kế, nâng cao đời sống mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh biên giới. Mỗi hộ dân nơi phên dậu được xem như một “cột mốc sống” cùng bộ đội biên phòng quản lý, bảo vệ đường biên, giữ bình yên cho Tổ quốc”.
Còn nhớ, tại hội nghị sơ kết Chương trình “Xóa nhà tạm, nhà dột nát” trên địa bàn tỉnh gần đây, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Doãn Anh từng nhấn mạnh: “Xóa nhà tạm, nhà dột nát là chương trình lớn, đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần trách nhiệm, tình dân tộc, nghĩa đồng bào, truyền thống “lá lành đùm lá rách” của người Việt Nam nói chung, Thanh Hóa nói riêng. Mỗi căn nhà được hoàn thành không chỉ là mái ấm che mưa che nắng, mà còn là biểu tượng của niềm tin, sự hồi sinh và động lực vươn lên thoát nghèo bền vững, cũng là thể hiện tính tốt đẹp của chế độ XHCN”.
Có thể khẳng định, việc “an cư” không chỉ đơn thuần là việc di chuyển chỗ ở hay xây dựng những ngôi nhà mới, mà sâu xa hơn, đó là quá trình thay đổi nếp sống, thói quen sản xuất của đồng bào miền núi. Những khu tái định cư mới, những ngôi nhà được xây dựng từ các chương trình, dự án, đã và đang góp phần xây dựng những “vùng sáng” về phát triển kinh tế, ổn định về an ninh trật tự, là nền tảng để góp phần xây dựng các bản, xã vùng biên, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ấm no, vững bền.
Đình Giang
Bài cuối: Tiếp tục “chắp cánh” để những chính sách đi vào cuộc sống
Tin liên quan:
Tiếng nói từ bản làng (Bài 1): Những con đường mang ...
Ở các xã vùng cao biên giới xứ Thanh, đường sá không chỉ là lối đi lại, giao thương, kết nối văn hóa mà còn là “nhịp cầu” đưa đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) đến gần hơn với ước mơ về cuộc sống ấm no. Từ những buổi họp bản canh khuya với bao kiến nghị, mong mỏi, đến tiếng nói cử tri được các đại biểu HĐND tỉnh lắng nghe, tiếp thu, rồi đưa vào nghị quyết, bố trí nguồn vốn đầu tư. Con đường mới hình thành, mang theo sự đổi thay, minh chứng cho kết quả của sự thấu hiểu, nghĩa tình!