Nguyễn Phong Dy: Từ chí sĩ đến Đình nguyên tiến sĩ
'Nguyệt Viên mười tám ông nghè/ Ông cưỡi ngựa tía, ông che tán vàng'. Nguyệt Viên là một địa danh có truyền thống hiếu học, khoa bảng bậc nhất xứ Thanh. Trong đó có Tiến sĩ đồng xuất thân Nguyễn Phong Dy (Di) - vị quan trạng cuối cùng của khoa cử Nho học thời phong kiến.

Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Phong Dy là 1 trong 293 vị tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919) được khắc tên trên 32 tấm bia ở Văn Thánh Huế.
Làng Nguyệt Viên, một làng cổ nơi sông Mã chảy qua, núi Ngọc chầu về, có tới 11 người đỗ đại khoa, gồm: Nguyễn Trật (1581-1661), Lê Bình Trung (1594-?), Nguyễn Vị (1608-?), Nguyễn Nhân Trứ (1612-?), Nguyễn Kính (1629-?), Nguyễn Tông (1643-?), Nguyễn Hữu Độ (1813-?), Nguyễn Xuân Đàm (Nguyễn Xuân Dục (1878-?)), Nguyễn Phong Dy (1883-1923), Lê Viết Tạo (1876-1925) và Lê Khắc Khuyến (1879-?).
Nhắc lại lịch sử khoa thi năm Kỷ Mùi (1919), Vua Khải Định đưa ra lời phê tờ trình của bộ Học: “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt hẳn. Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt” (sách Khải Định chính yếu).
Theo quy định từ lâu đời, sĩ tử muốn dự kỳ thi Hội phải vượt qua được kỳ thi Hương nhưng do đây là khoa thi cuối cùng nên đối tượng dự thi được mở rộng hơn.
Trong lời phê chuẩn thể thức kỳ thi Hội năm đó, Vua Khải Định nói: “Lần này là khoa thi Hội cuối cùng của triều đình nên trẫm muốn gia ân cho sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai thông thạo cả hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình lên bộ Học để xin vào ứng thí, lấy tên khoa này là Ngự tứ ân khoa”.
Khoa thi này triều đình lấy đỗ tổng cộng 23 người, trong đó có 7 người đỗ tiến sĩ, 16 người đỗ phó bảng. Và Nguyễn Phong Dy chính là người đứng đầu trong số 7 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nguyễn Phong Dy (Nguyễn Thái Bạt), sinh năm 1883 (có tài liệu ghi là 1889), tại làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung (nay thuộc phường Nguyệt Viên, tỉnh Thanh Hóa). Nhắc đến ông, người hậu thế chủ yếu nhắc đến một người đỗ đại khoa sinh ra trên quê hương có truyền thống hiếu học mà lãng quên vai trò của một đại sĩ phu nhiệt thành tham gia các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX ngay từ đầu.
Toàn bộ cuộc đời chí sĩ Nguyễn Phong Dy có trong Quốc triều Hương khoa lục và Nguyễn Phong Dy truyện. Năm 1904, Nguyễn Phong Dy ở trong đoàn thanh niên đầu tiên được Phan Bội Châu cho đi Nhật du học, nhưng lúc ấy bơ vơ nên cả hội hết sức cơ cực. Sau đó có một người tên là Asaba Sakitaro giang tay cứu giúp, riêng Nguyễn Phong Dy ít tuổi nhất nên được vào học Đồng Văn học hiệu. Ông học tiếng Nhật và Hán ngay tại trường. Sau khi Phan tiên sinh thành lập Giao tế Bộ, ông được phân công nhiệm vụ vận động gây ảnh hưởng cũng như tập hợp thêm thanh niên ở An Nam xuất dương.
Năm 1910, hội Đông Du bị trục xuất, Nguyễn Phong Dy lại nhận trách nhiệm hộ tống Phan Bội Châu và hoàng thân Cường Để về Thượng Hải rồi xuống Quảng Châu. Ông được cụ Phan cho đi học ở tận Bắc Kinh. Nguyễn Phong Dy học chưa được một năm thì bỏ trường đi theo Tôn Trung Sơn làm cách mạng, lấy tên mới là Lý Phục Hán. Sau cách mạng Tân Hợi 1911, ông có thời gian ngắn làm phụ tá cho Tôn tiên sinh và được chính Tôn tiên sinh gả cho người con nuôi tên Lâm thị, nhưng ông cự tuyệt.

Ông Nguyễn Khắc Thuyết, cháu nội của Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Phong Dy giới thiệu về truyền thống hiếu học của dòng họ.
Năm 1912, Viên Thế Khải đảo chính nên các cựu hội viên Đông Du cũng lao đao. Phan Bội Châu trốn đi Xiêm La, còn Nguyễn Phong Dy trở về quê nhà ở Thanh Hóa. Lúc này ông mới chịu thành thân với một người con gái của “ông Bạch Xỉ” Đoàn Chí Tuân, lãnh tụ Cần Vương. Kể từ thời gian ấy, ông chuyên tâm học thêm tiếng Pháp và dùi mài kinh sử.
Năm Khải Định thứ 4 (1919), Nguyễn Phong Dy lều chõng đi thi và chiếm giải nguyên. Cũng trong khoa thi này, ở Thanh Hóa còn có Nguyễn Cao Tiêu người xã Bản Thủy, huyện Vĩnh Lộc (nay thuộc xã Biện Thượng) đã đỗ Tiến sĩ đồng xuất thân. Và ở ngay làng Nguyệt Viên còn có ông Lê Viết Tạo đỗ Phó bảng. Sau khi trở thành vị quan trạng cuối cùng của khoa cử Nho học, Nguyễn Phong Dy được thăng làm quan Lục sự tòa Khâm sứ.
Theo tài liệu, làm quan chưa được bao lâu, năm 1923, vì sức khỏe kém, ông mất và được chôn ở kinh thành Huế. “Một nén hương đưa người chí sĩ; Trăm năm còn mãi tiếng đình nguyên” là lời tổng kết cho số phận một con người, vừa là chí sĩ vừa là đình nguyên, danh tiếng mãi lưu truyền.
Ông Cao Xuân Mạc, trưởng tiểu ban quản lý di tích nghè Nguyệt Viên, cho biết: Làng Nguyệt Viên tự hào có những vị đại khoa như cụ Nguyễn Phong Dy và còn tự hào hơn khi cụ tham gia các phong trào Cần Vương; Đông Kinh nghĩa thục đầu thế kỷ XX.
Đến thăm nhà thờ dòng họ Nguyễn ở phường Nguyệt Viên, tiếp chúng tôi là ông Nguyễn Khắc Thuyết, cháu nội của cụ Nguyễn Phong Dy. Ông cho biết thêm: Trong tộc Nguyễn của chúng tôi có ông tổ đời thứ 2 là thượng tướng quân Nguyễn Trọng Ông (1430-?); đời thứ 6 có cụ Nguyễn Vị, đỗ tiến sĩ năm 1637; đời thứ 11, có cụ Nguyễn Đức Hạo, đạt Lê triều giải nguyên khoa thi năm 1723; và ông nội tôi, thuộc đời thứ 16, là đệ tam giáp, đệ nhất danh – Đình nguyên tiến sĩ Nguyễn Phong Dy khoa thi năm 1919. Có thể nói chính sự phấn đấu và thành tích học tập của các bậc tiền nhân là tấm gương sáng cho con cháu trong họ tộc noi theo. Vì thế mà, trong dòng họ luôn có người đỗ đạt cao.
Hình thế sông, nước bao quanh tạo nên mảnh đất như vầng trăng tròn đẹp, đúng với cái tên Nguyệt Viên. Không khác gì những cây to tỏa bóng xuống, chính những bậc đại khoa như Nguyễn Phong Dy đã làm rạng danh thêm cho một “miền địa linh nhân kiệt”.