Tiêu thụ, xử lý tro, xỉ của nhà máy nhiệt điện than: Vì sao chưa đạt yêu cầu?
Sớm giải quyết những khó khăn trong xử lý, tái chế, tái sử dụng tro, xỉ của các nhà máy nhiệt điện than làm nguyên liệu sản xuất, vật liệu xây dựng và sử dụng trong các công trình xây dựng đang trở thành mục tiêu cấp bách hiện nay.
Tiêu thụ, xử lý 42% tổng lượng phát thải
Theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện cả nước có 25 nhà máy nhiệt điện đốt than đang hoạt động, phát thải ra tổng lượng tro, xỉ khoảng 13 triệu tấn/năm, trong đó tro bay chiếm từ 80 - 85%. Lượng phát thải tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc, chiếm 65%, miền Trung 23% và miền Nam chiếm 12% tổng lượng thải.
Trong số này, lượng tro xỉ phát thải từ 13 nhà máy nhiệt điện than thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là 8,57 triệu tấn, chiếm 64% tổng lượng phát thải của cả nước. Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) có 6 nhà máy, với lượng tro, xỉ phát thải là 2,05 triệu tấn, chiếm 15% tổng lượng phát thải và 1 nhà máy thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với 0,784 triệu tấn, chiếm khoảng 6% tổng lượng tro, xỉ phát thải. Cùng với đó là 5 nhà máy của các chủ đầu tư BOT và các chủ đầu tư khác phát thải khoảng 2 triệu tấn, chiếm 15% tổng lượng phát thải của cả nước.
Năm 2017, Chính phủ đã ban hành Quyết định 452/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong các công trình xây dựng. Qua gần 4 năm thực hiện Quyết định, kết quả thực tế vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Tính đến cuối năm 2020, tổng lượng tro, xỉ nhiệt điện đã tiêu thụ trên cả nước khoảng 44,5 triệu tấn, tương đương 42% tổng lượng phát thải qua các năm.
Thực tế, tro, xỉ được sử dụng nhiều nhất là lĩnh vực làm phụ gia khoáng cho xi măng, khoảng 24 triệu tấn, chiếm 70%; sản xuất gạch đất sét nung và gạch không nung khoảng 4 triệu tấn, chiếm 12%; làm phụ gia cho sản xuất bê tông tươi, bê tông cho các công trình thủy lợi, công trình giao thông (đường bê tông xi măng vùng nông thôn) và công trình xây dựng dân dụng (kết cấu móng khối lớn ít tỏa nhiệt) khoảng 3 triệu tấn, chiếm 8%; và làm vật liệu san lấp, đắp đường giao thông các loại khoảng 3,5 triệu tấn, chiếm 9%.
Theo ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), lượng tiêu thụ tro, xỉ của các nhà máy nhiệt điện than chưa đạt mục tiêu đặt ra của Đề án cả về tổng lượng tiêu thụ và cơ cấu tiêu thụ cho các lĩnh vực. Tính đến cuối năm 2020, tổng lượng tro, xỉ lưu giữ tại bãi chứa của các nhà máy nhiệt điện than vẫn còn khoảng 47,65 triệu tấn. Mặc dù các bộ, ngành, địa phương, chủ cơ sở phát thải và đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng đã triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định 452, hành lang pháp lý tạo điều kiện cho việc sử dụng tro, xỉ đã cơ bản được xây dựng và ban hành đầy đủ nhưng kết quả xử lý, tiêu thụ tro, xỉ chưa như kỳ vọng.
Thêm cơ chế cho doanh nghiệp
Báo cáo của Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận cho thấy, tính đến tháng 6/2020, tại Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân, lượng tro, xỉ phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, 2, 4 và 4 mở rộng khoảng trên 10,9 triệu tấn; nhưng lượng tro, xỉ đã được xử lý, tiêu thụ chỉ đạt con số rất khiêm tốn, hơn 1,049 triệu tấn, chiếm 9,62%.
Lý giải nguyên nhân của tình trạng này, đại diện Sở Xây dựng Bình Thuận - cho biết: Do các nhà máy nhiệt điện cách quá xa cơ sở sản xuất xi măng và hộ tiêu thụ vật liệu xây dựng lớn ở phía Nam như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai… nên khó khăn trong vận chuyển, tăng chi phí tiêu thụ do vận chuyển đi xa.
Bên cạnh đó, theo ông Phạm Trọng Thực - Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương): Tuy đã có các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng… nhưng thực tế doanh nghiệp (DN) còn khó tiếp cận. Đặc biệt, chưa có đầu ra cho sản phẩm của các nhà máy.
“Để xử lý triệt để tro, xỉ thải phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện đốt than, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng...”- ông Phạm Trọng Thực đề xuất.
Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nghiên cứu ứng dụng, tham gia hợp tác kinh doanh với các nhà máy nhiệt điện trong việc xử lý và tiêu thụ tro, xỉ. Cần có chính sách hỗ trợ cho các DN đầu tư lĩnh vực này như lãi suất, thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng...
Về phía Bộ Công Thương cũng cho rằng, cần thiết phải sửa đổi Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu theo hướng loại bỏ giấy phép xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường để các DN dễ dàng tiếp cận và xử lý tái chế tro, xỉ. Đồng thời, giúp các nhà máy nhiệt điện than chủ động xử lý các vấn đề môi trường. Trên cơ sở đó, giám sát thực hiện các quy định về quản lý, xử lý và tiêu thụ các loại sản phẩm vật liệu xây dựng từ tro, xỉ.
Theo Bộ Công Thương, cần phải có giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiêu thụ, sử dụng tro, xỉ của các nhà máy nhiệt điện than, hướng tới giải quyết bài toán về vấn đề môi trường.