Tìm giải pháp bảo tồn văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi Nam Trung Bộ

Các chuyên gia, nhà nghiên cứu bàn luận nhiều giải pháp nhằm bảo tồn văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi Quảng Ngãi và khu vực Nam Trung Bộ trong tình hình mới

Phát biểu tại Hội thảo, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Ngãi Trần Hoàng Tuấn nhấn mạnh, Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử và văn hóa, là nơi phát hiện văn hóa Sa Huỳnh - một trong ba nền văn hóa tiêu biểu trong tiến trình lịch sử của Việt Nam đã được thế giới công nhận; là nơi hội tụ, cộng cư của đồng bào các dân tộc thiểu số Hrê, Cor, Ca Dong.

Ông Trần Hoàng Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Ngãi phát biểu tại Hội thảo.

Ông Trần Hoàng Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Ngãi phát biểu tại Hội thảo.

Nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi được gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Một số loại hình đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Cồng chiêng dân tộc Cor (Trà Bồng); nghề dệt thổ cẩm Làng Teng, nghệ thuật trình diễn chiêng ba của người Hrê (Ba Tơ).

Giáo sư, tiến sĩ Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Giáo sư, tiến sĩ Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Trong quá trình hội nhập và phát triển, công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống của cộng đồng các dân tộc thiểu số gặp nhiều thách thức. Tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian... của đồng bào dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một, thất truyền. Đời sống vật chất, mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần chưa đồng đều giữa các vùng miền, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và phát triển đất nước.

“Qua hội thảo lần này, Quảng Ngãi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, các giải pháp để văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi trong tỉnh và khu vực Nam Trung Bộ được bảo tồn và phát triển, trường tồn với lịch sử văn hóa, hòa chung vào dòng chảy văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, góp phần vào công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”, ông Tuấn nói.

Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi phát biểu tại Hội thảo.

Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi phát biểu tại Hội thảo.

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Giáo sư, tiến sĩ Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, chia sẻ với những thay đổi nhanh chóng của đời sống chính trị, xã hội và đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ hiện đại, thiết nghĩ chúng ta cần lưu ý đến bảo vệ các di sản văn hóa tộc người thiểu số trong khu vực cũng như toàn quốc. Điều chúng ta đã và đang làm đó là sưu tầm, ghi chép, tư liệu hóa những giá trị, những hiện tượng văn hóa dân gian trong thời gian qua.

Ông lưu ý, song hành với việc giữ gìn, lưu giữ đối với những người nghiên cứu, thì việc sưu tầm này giúp cho bản thân mỗi tộc người thấy được giá trị của mình trước sự đa dạng văn hóa chung của toàn quốc và cao hơn là giúp cho chính họ dùng văn hóa tộc người của mình để nuôi dưỡng, vun trồng, làm phong phú đời sống tinh thần của họ và gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người, giáo dục các thế hệ gìn giữ truyền thống của cha ông mình cũng như tìm thấy chỗ đứng riêng của họ trong vườn hoa nhiều hương sắc của văn hóa Việt Nam.

“Điều vô cùng quan trọng hiện nay đó là làm thế nào để đem những giá trị văn hóa nói chung, văn hóa dân gian nói riêng của một tộc người phục vụ cho cuộc sống hiện tại, vừa để giáo dục thế hệ trẻ, vừa để bảo tồn bản sắc văn hóa của cha ông và quan trọng hơn nữa là để phát triển kinh tế của mỗi địa phương.

Việc giáo dục di sản có thêm một vấn đề nữa là đưa vào trường học để dạy cho lớp trẻ. Dưới nhiều hình thức khác nhau như các bài học về văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười…), các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca, nhạc cụ truyền thống, các nghề thủ công, cách chế biến các món ăn dân gian…Đó là cách giáo dục trực quan sinh động nhất đối với lớp trẻ, làm cho học sinh từ quen đến yêu quý trân trọng văn hóa dân tộc của mình”, ông Lý nhấn mạnh.

Bàn luận tại Hội thảo, tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi nêu quan điểm về Lễ ăn trâu nên duy trì hay loại bỏ (qua khảo sát lễ ăn trâu của người Ca dong ở huyện vùng cao Sơn Tây (Quảng Ngãi), cùng với cây nêu - một loại hình nghệ thuật tạo hình mang đặc trưng của tộc người, lễ ăn trâu Ca dong còn là dịp để trao truyền các loại hình di sản văn nghệ dân gian của tộc người.

Và không phải chỉ trao truyền sự trân trọng đối với chiêng, diễn tấu chiêng, mà trong lễ ăn trâu, người Ca dong còn đánh thức ý thức di sản cồng chiềng cho người già và tạo cơ hội để người già trao truyền cho lớp trẻ những bài caleo, yê ô dê, ra nghế…, biết điệu múa cacheo đi ngược chiều quanh cây nêu, được nghe kể những amoan về sự hình thành tộc người, hình thành làng xóm, về sự tích núi sông, về nàng Y Dật dẹp, dịu dàng trong nhiều truyện cổ tích…; được trao truyền các loại hình nhạc cụ, như t’rưng, akhung, vrook krâu, vrook t’ru, rauốt, chinh kala…; được nghe những câu thành ngữ, tục ngữ, câu đố mà người nhiều người lớn tuổi còn ghi nhớ trong ký ức.

“Từ những ý kiến của người Ca dong trong cuộc, những băn khoăn của các cơ quan quản lý văn hóa và các cấp chính quyền, để tìm ra lời giải cho vấn đề đặt ra là loại bỏ hay duy trì lễ ăn trâu của người Ca dong lẫn các đồng tộc của họ ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên là vấn đề không hề dễ.

Nếu loại bỏ, thì chắn hẳn di sản văn hóa của tộc người sẽ mất dần, bởi trong lễ ăn trâu hội tụ dường như đầy đủ các thành tố văn hóa của tộc người", ông Vũ bày tỏ.

Hội thảo có hơn 50 tham luận của các nhà nghiên cứu văn hóa trong cả nước, tập trung các nhóm vấn đề: Bảo tồn di sản văn hóa, văn học dân gian, tín ngưỡng, lễ hội dân gian, âm nhạc, du lịch, ẩm thực… Qua đó, chỉ ra vốn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian khá đa dạng, phong phú và đặc sắc.

Các nhà nghiên cứu văn hóa ở Quảng Ngãi cũng đã có những tham luận về hướng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn tỉnh; bảo tồn và phát huy nghệ thuật trình diễn chiêng ba của người Hrê; truyện dân gian Cor ở Quảng Ngãi từ góc nhìn địa văn hóa. Mối tương quan văn hóa của người Sa Huỳnh cổ và dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi; phác đồ giao thương xuôi - ngược ở Quảng Ngãi và những bài học. Ngoài ra, còn có tham luận về các tín ngưỡng, lễ hội dân gian các dân tộc miền núi Quảng Ngãi như: Lễ cúng cầu mưa, lễ ăn trâu, lễ mừng lúa mới…

Minh Thu

Nguồn Du lịch TP.HCM: https://tcdulichtphcm.vn/chuyen-dong/tim-giai-phap-bao-ton-van-hoa-van-nghe-dan-gian-cac-dan-toc-mien-nui-nam-trung-bo-c2a80236.html