Tìm hiểu nét độc đáo của Tranh Đông Hồ - Di sản Văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp

Đông Hồ là một dòng tranh dân gian độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống với những hình ảnh tươi vui, hồn nhiên và chứa đựng ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản thứ 17 của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào các Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO. (Ảnh: TTXVN)

UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản thứ 17 của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào các Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO. (Ảnh: TTXVN)

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh) vừa được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Việc UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần bảo vệ khẩn khẳng định giá trị lịch sử-nghệ thuật độc đáo của nghề, đồng thời tạo động lực để các nghệ nhân tiếp tục gìn giữ kỹ năng, bí quyết nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một.

Theo Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đăng Chế, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ tồn tại từ lâu. Gia phả của dòng họ Nguyễn Đăng làng Đông Hồ có ghi từ thế kỷ 16 đã có nghề làm tranh và phát triển rực rỡ vào thập niên 40 của thế kỷ 20.

Sau năm 1945, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đứng trước nguy cơ mai một, không có người đến mua tranh. Do đó, các gia đình chuyển sang làm hàng mã. Hiện nay, làng Đông Hồ chỉ còn hai dòng họ làm tranh là: Họ Nguyễn Hữu và họ Nguyễn Đăng với ba gia đình tâm huyết còn bám trụ với nghề .

Đông Hồ là một dòng tranh độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống với những hình ảnh tươi vui, hồn nhiên và chứa đựng ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là những bức tranh khắc họa ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận hòa, ấm no, hạnh phúc, một xã hội công bằng, tốt đẹp.

Với những nét tinh túy riêng và mang đậm những giá trị văn hóa to lớn, tranh Đông Hồ bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn.

Sự phong phú và đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn

Nét hấp dẫn của tranh dân gian Đông Hồ không chỉ đề cập đến cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, mong ước vinh hoa phú quý… mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc.

Về chất liệu và màu sắc

 Tranh Đông Hồ sau khi in xong được gỡ ra khỏi ván in, dán lên khay tre rồi mang ra phơi ở những nơi thoáng mát. Tranh khô rồi mới tiếp tục lần lượt in các màu khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Tranh Đông Hồ sau khi in xong được gỡ ra khỏi ván in, dán lên khay tre rồi mang ra phơi ở những nơi thoáng mát. Tranh khô rồi mới tiếp tục lần lượt in các màu khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Nét độc đáo đầu tiên thu hút cảm quan người xem của tranh chính là ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là giấy dó được làm từ vỏ cây dó, với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe.

Trên giấy được quét lên một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh rất đặc thù bằng cách: người ta nghiền nát vỏ con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở biển) trộn với hồ (loại bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi là bột sắn), dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.

Với chổi lá thông sẽ tạo thành những đường ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng có ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, trong quá trình làm giấy điệp có thể pha thêm màu khác vào hồ. Màu sắc được sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như màu đen từ than cây xoan hay than lá tre, màu xanh từ gỉ đồng, lá chàm, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang,… Đây là những màu cơ bản, không pha trộn.

Về thể loại

Theo nội dung chủ đề, tranh Đông Hồ có thể chia thành 7 loại chính: tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.

Về quy trình sản xuất

Tranh có nhiều công đoạn, trong đó có 2 khâu chính gồm: sáng tác mẫu (khắc ván) và in (vẽ tranh). Ở đây có thể thấy mỗi nghệ nhân đòi hỏi có ít nhiều năng khiếu bẩm sinh cũng như kỹ năng lao động cao.

Ván khắc in tranh có 2 loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve làm bằng thép cứng (khoảng 30-40 chiếc/bộ).

Các nghệ nhân làng Hồ sáng tác mẫu vẽ tranh bằng tay còn các công đoạn khác thì dùng ván in.

Về giá trị nghệ thuật

Dòng tranh dân gian Đông Hồ mang tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, dễ hiểu, rất gần với đời sống người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Về nội dung

Tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người, xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân vùng này. Những bức tranh nói lên ước mơ ngàn đời của người lao động về một cuộc sống gia đình thuận hòa, ấm no, hạnh phúc và một xã hội công bằng, tốt đẹp.

Ý nghĩa của một số bức tranh dân gian Đông Hồ:

 Tranh dân gian Đông Hồ được chia thành nhiều loại: Tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt (2025). (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)

Tranh dân gian Đông Hồ được chia thành nhiều loại: Tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt (2025). (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)

Tranh Gà mẹ và đàn con: nói về tình mẫu tử, tình yêu thương, đùm bọc nhau giữa các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của cha mẹ với con cái.

Tranh Đàn lợn âm dương: gắn bó với cuộc sống sinh hoạt bình dân, mong muốn cuộc sống sung túc, an nhàn. Đây chính là chiều sâu của sự cảm nhận về yêu thương, chở che của tình mẫu tử.

Tranh Gà trống và hoa hồng: Gà trống là con vật đại diện cho 5 phẩm chất tốt đẹp: văn, võ, dũng, nhân, tín. Tranh có hàm ý mang đến năm mới cát tường, lộc thọ cho ngày xuân.

Tranh Lý ngư vọng nguyệt (Cá chép trông trăng) ngụ ý về tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên, phấn đấu trong học hành và sự thành đạt.

Tranh Vinh hoa: đem đến cho năm mới ý nguyện hiển đạt với đủ đức hạnh quân tử: nhân, nghĩa, tín, dũng và văn võ song toàn cho người đàn ông trong gia đình.

Tranh Phú quý: với hình ảnh em bé gái ôm vịt đem đến ước nguyện phẩm chất duyên dáng, dịu dàng, trong sáng.

Tranh Mục đồng thổi sáo: cho thấy sự thanh bình an lạc trong cuộc sống nghèo khổ, cơ hàn của trẻ chăn trâu.

Tranh Thầy đồ cóc: Ca ngợi đức tính ham học và tôn sư trọng đạo của người Việt Nam.

Tranh Trê có kiện nhau: bi hài kịch về sự thiếu hiểu biết, ngu dốt của dân đen và phản ánh thói quan tham, tham nhũng của quan lại trong chế độ cũ.

Tranh Vinh Quy bái tổ: Vinh quy bái tổ không chỉ là vinh dự cho vị tân khoa, cho cha mẹ họ hàng, làng xóm mà còn là dịp để tân khoa bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên, cha mẹ và người thầy dạy theo đúng đạo lý Việt Nam “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”. Đây là một truyền thống văn hóa rất đáng quý, đáng trân trọng.

Tranh Đấu vật: đề cao tinh thần thượng võ. Đấu vật là môn võ cổ truyền của Việt Nam xuất hiện từ khi lập quốc và tồn tại gắn liền với hoạt động bảo vệ tổ quốc và lễ hội xuân. Bức tranh nổi tiếng của làng Đông Hồ.

Tranh Đánh ghen: là một trong những tranh sinh hoạt dí dỏm, nhưng mang tính giáo dục rất lớn. Hình ảnh một bà vợ xắn váy xông tới, tay cầm kéo định cắt tóc cô nhân tình. Hình ảnh ông chồng bị bắt quả tang nhưng một tay vẫn đặt lên ngực nhân tình để bảo vệ còn tay kia thì để hòa hoãn với vợ. Đứa bé đang chắp tay van lạy vì sự cư xử của bậc phụ mẫu.

Bức tranh như một lời cảnh báo những hành động của cha mẹ sẽ đi sâu vào tâm thức con trẻ tác động rất lớn tới sự hình thành nhân cách sau này. Tranh mang đậm ý nghĩa nhân văn.

Tranh Đám cưới chuột (Chuột vinh quy): thể hiện đậm đà tâm hồn, tính cách thuần hậu, chất phác của người bình dân và cũng giàu chất triết lý dân gian, mang tính nhân văn sâu sắc, ý nhị. Đám cưới chuột bề ngoài là một đám cưới vui vẻ thế phải có cống vật dâng lên mèo. Bức tranh khoác lên vẻ đẹp duyên dáng của tầng lớp xã hội phong kiến thông qua hình tượng các con vật một cách dí dỏm và sâu sắc.

Ngoài những bức tranh dân gian Đông Hồ mang nội dung bình dân với cuộc sống giản dị mà đầy ý nghĩa, còn có những màu sắc tôn quý hơn với những bức tranh tứ quý thể hiện sự sang trọng, cao quý chỉ dùng cho vua chúa, quan lại thời xưa.

Ví dụ, "Tứ quý, Tứ bình, Tứ quý hạc, Tứ quý tố nữ"… mang đậm chất vương giả bởi những hình ảnh tượng trưng cho sự sang trọng, quyền quý, mong ước mọi sự như ý trong một năm mới./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/tim-hieu-net-doc-dao-cua-tranh-dong-ho-di-san-van-hoa-can-bao-ve-khan-cap-post1082132.vnp