Tín dụng online phát triển 'nóng'- cần khung pháp lý chặt chẽ hơn
Tín dụng online trở thành xu hướng tất yếu, tạo cú huých cho tài chính số, đồng thời đòi hỏi kiểm soát rủi ro chặt chẽ và hành lang pháp lý vững vàng.
Xu hướng tất yếu của ngân hàng số
Từ nền tảng dữ liệu minh bạch, tín dụng online đang nổi lên như một kênh dẫn vốn hiệu quả, giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực tài chính nhanh hơn, thuận tiện hơn. Cùng với làn sóng chuyển đổi số, các ngân hàng đã đồng loạt đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ, tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big data) và sinh trắc học vào sản phẩm, dịch vụ. Không chỉ dừng lại ở thanh toán, các nền tảng ngân hàng số, ví điện tử, QR Code và mobile banking còn mở rộng chức năng sang thẩm định tín dụng, quản trị rủi ro và phân tích hành vi khách hàng, giúp giảm chi phí xã hội và mở rộng cơ hội tiếp cận vốn.
PGS. TS Đặng Ngọc Đức, Viện trưởng Viện Công nghệ Tài chính, Trường Đại học Đại Nam, khẳng định, cho vay trực tuyến đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ sinh thái tài chính số. Nhiều ngân hàng thương mại ghi nhận tăng trưởng dư nợ từ kênh số vượt xa kỳ vọng, mở rộng phạm vi phục vụ tới cả những khu vực vùng sâu vùng xa, nơi vốn khó tiếp cận dịch vụ tài chính truyền thống.
“Việc tích hợp AI, Big Data, Machine Learning vào quy trình xét duyệt tín dụng giúp giảm rủi ro, tăng tốc độ xử lý hồ sơ và nâng cao trải nghiệm khách hàng. Giai đoạn 2021 - 2025 là bản lề cho một thị trường tín dụng số phát triển minh bạch và toàn diện hơn”, ông Đức nhận định.

Nhiều ngân hàng thương mại ghi nhận tăng trưởng dư nợ từ kênh số vượt xa kỳ vọng. Ảnh: Nguyên Anh
Tại Việt Nam, 97% doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) nhưng phần lớn vẫn khó tiếp cận vốn do thủ tục phức tạp và chi phí cao. Chính vì vậy, các nền tảng tín dụng số đang tạo ra đột phá.
Bà Nguyễn Thị Ngoan, Giám đốc Tài chính MISA, cho biết, MISA Lending được xây dựng nhằm kết nối trực tiếp SME với ngân hàng thông qua dữ liệu số từ phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử và dòng tiền doanh nghiệp. Với gần 400.000 khách hàng doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ cloud, nền tảng này cung cấp “dữ liệu sống” giúp ngân hàng đánh giá rủi ro theo thời gian thực, hạn chế nợ xấu và đẩy nhanh giải ngân. Hiện MISA đã kết nối với 11 ngân hàng, cấp hạn mức gần 16.000 tỷ đồng, giải ngân khoảng 30.000 tỷ đồng, tỷ lệ vay thành công đạt 30%, gấp 10 lần so với mô hình truyền thống.
Bà Ngoan phân tích, hệ thống dữ liệu tĩnh và động được kết hợp để tạo bức tranh tài chính minh bạch. Dữ liệu tĩnh gồm lịch sử tín dụng, thông tin từ Trung tâm Thông tin Tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC), báo cáo thuế; dữ liệu động phản ánh dòng tiền hằng ngày, hóa đơn điện tử và nhân sự. Nhờ đó, ngân hàng có thể đưa ra quyết định tín dụng chính xác, nhanh chóng và giảm thiểu rủi ro nợ xấu.
Ở góc độ ngân hàng, bà Lê Thị Thúy Hà, Giám đốc Dự án Digital Lending, Khối Ngân hàng số MBBank, cho biết, hiện MB đang vận hành 2 nền tảng APP MBBank và Biz MBBank phục vụ song song khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Trên APP MBBank, hơn 33 triệu khách hàng cá nhân đã mở tài khoản, sử dụng dịch vụ trực tuyến với 100% hồ sơ sinh trắc học eKYC thành công. Tất cả các khoản vay tín chấp tiêu dùng đều được giải ngân toàn trình trực tuyến. 90,8% khoản vay sản xuất kinh doanh cũng đã được giải ngân online, đạt doanh số lũy kế hơn 165.000 tỷ đồng chỉ trong 8 tháng năm 2025.
Trong khi đó, Biz MBBank phục vụ hơn 350.000 khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm Micro SME. 100% các giao dịch vay vốn trên hai nền tảng đều sử dụng hợp đồng điện tử có chữ ký số, đảm bảo pháp lý và nâng cao trải nghiệm khách hàng.

Các ngân hàng đang phát triển dịch vụ cho vay trực tuyến 100% qua kênh số. Ảnh: Duy Minh
Cần hành lang pháp lý vững vàng
Tốc độ phát triển nhanh của tín dụng online cũng đặt ra nhiều thách thức. PGS. TS Đặng Ngọc Đức thẳng thắn nhìn nhận: Khi dữ liệu quốc gia về dân cư, thuế và tín dụng chưa kết nối hoàn chỉnh, khả năng đánh giá rủi ro còn bị hạn chế. Dù Thông tư 06/2023/TT-NHNN đã đặt nền móng pháp lý cho cho vay điện tử, nhưng nhiều quy định về hợp đồng điện tử, xử lý tranh chấp, bảo vệ dữ liệu cá nhân và xác thực khách hàng vẫn còn bỏ ngỏ. Điều này khiến việc xác định trách nhiệm khi xảy ra rủi ro pháp lý trở nên phức tạp.
Thách thức nữa đến từ hạn chế về dữ liệu và công nghệ phân tích hành vi khách hàng, khiến rủi ro tín dụng và gian lận công nghệ tăng cao. Cùng với đó, niềm tin của người dùng vẫn là bài toán lớn. Không ít khách hàng e ngại về tính pháp lý của hợp đồng điện tử, độ bảo mật thông tin cá nhân và khả năng được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp.
Để tháo gỡ các nút thắt, ông Đức khuyến nghị. Trước hết, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, bổ sung các quy định về hợp đồng điện tử, xác thực khách hàng, lưu trữ dữ liệu, xử lý tranh chấp và bảo vệ thông tin cá nhân. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành khung pháp lý cho mô hình cho vay ngang hàng (P2P Lending), nhưng cần triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát theo Nghị định 94/2025/NĐ-CP để đánh giá rủi ro và hiệu quả trước khi nhân rộng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại phải đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ số, nâng cấp core banking, tích hợp AI, Big Data, Blockchain, IoT để tự động hóa xét duyệt và quản trị rủi ro. Ngoài ra, cần đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức của khách hàng, đồng thời đào tạo lại đội ngũ nhân lực ngân hàng để vận hành hệ thống tín dụng trực tuyến an toàn, hiệu quả và có khả năng phối hợp liên ngành giữa tài chính, công nghệ, quản trị rủi ro.
“Cho vay trực tuyến là một bước tiến quan trọng trong quá trình số hóa tài chính, mang lại lợi ích lớn về thời gian, chi phí và khả năng tiếp cận vốn. Nhưng nếu không có hành lang pháp lý vững vàng, chiến lược công nghệ bài bản và quản trị rủi ro hiệu quả, tốc độ tăng trưởng có thể trở thành con dao hai lưỡi”, ông Đức cảnh báo.
Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Phạm Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước, cho biết, thời gian qua cơ quan này đã ban hành nhiều văn bản để hoàn thiện khung pháp lý. Đặc biệt, Nghị định 94/2025/NĐ-CP đã chính thức cho phép triển khai mô hình P2P Lending trong cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, giúp mở rộng kênh vốn nhưng vẫn bảo đảm an toàn hệ thống.
Ông Tuấn cũng nhấn mạnh: An ninh mạng và bảo mật dữ liệu khách hàng phải được đặt lên hàng đầu. Các ngân hàng cần tăng cường đầu tư hạ tầng bảo mật, ứng dụng AI để giám sát, đồng thời hợp tác quốc tế về an toàn dữ liệu. “Yếu tố quyết định thành công vẫn là niềm tin của khách hàng. Một nền tảng pháp lý rõ ràng, dữ liệu đồng bộ, công nghệ an toàn và dịch vụ minh bạch sẽ tạo dựng lòng tin, giúp tín dụng số thực sự trở thành động lực tăng trưởng mới của ngành ngân hàng trong kỷ nguyên tài chính số”, ông nhấn mạnh.
Tín dụng online đang mở ra cánh cửa mới cho tài chính toàn diện, nhưng song hành là trách nhiệm lớn về bảo mật, an toàn hệ thống và quản trị rủi ro. Khi luật chơi được định hình rõ ràng, công nghệ được đầu tư bài bản và niềm tin được củng cố, tín dụng số sẽ không chỉ là một xu hướng tất yếu, mà còn là động lực thúc đẩy tăng trưởng của toàn bộ hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam.