Tín dụng tạo lực đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại Đồng bằng sông Cửu Long
Tín dụng đang trở thành 'điểm tựa' quan trọng phát triển nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Dòng vốn ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn, mà còn giúp hình thành các chuỗi liên kết, mở rộng sản xuất quy mô lớn và tăng giá trị nông sản. Đến cuối tháng 10/2025, dư nợ nông nghiệp đạt 258.295 tỷ đồng, chiếm hơn 18% toàn vùng.
“Điểm tựa” phát triển nông nghiệp
Sau hơn 3 năm triển khai Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045, việc tiếp tục duy trì và mở rộng các nguồn vốn tín dụng ưu đãi được xác định là giải pháp trọng tâm. Chính sách này khuyến khích tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay lĩnh vực “tam nông”, hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp và hộ nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho người dân.
Nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò trụ đỡ của nền kinh tế và tham gia sâu hơn vào hội nhập quốc tế, trong đó tại ĐBSCL, dòng vốn tín dụng trở thành “điểm tựa” quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp.

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh khu vực 13, 14, 15. Đồ họa: Tú Anh
Sau khi hợp nhất đơn vị hành chính, khu vực ĐBSCL hiện có 3 Ngân hàng Nhà nước chi nhánh khu vực: Khu vực 13 (Tây Ninh - Đồng Tháp), Khu vực 14 (TP. Cần Thơ - Vĩnh Long) và Khu vực 15 (An Giang - Cà Mau). Quy mô dư nợ tín dụng đến cuối tháng 10/2025 đạt 1.416.876 tỷ đồng. Riêng tín dụng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 258.295 tỷ đồng, chiếm 18,23% tổng dư nợ tín dụng vùng ĐBSCL; tín dụng xuất khẩu là 67.017 tỷ đồng, chiếm 4,80%.
Bên cạnh đó, các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay theo những chương trình tín dụng chuyên biệt phục vụ trồng trọt, nuôi trồng, khai thác, thu mua, tiêu thụ và chế biến nông sản.
Nguồn vốn ngân hàng không chỉ giải quyết nhu cầu vốn, mà còn đóng vai trò như một “chất xúc tác” quan trọng, giúp nông sản vùng nâng tầm giá trị, gia tăng hiệu quả sản xuất và góp phần đổi mới diện mạo nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững.
Nâng tầm giá trị nông nghiệp và mở rộng chuỗi liên kết
"Thực tế cho thấy, An Giang có thế mạnh truyền thống về nông nghiệp. Dòng vốn tín dụng giữ vai trò then chốt, tạo điều kiện để doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân địa phương xây dựng các chuỗi liên kết, phát triển mô hình sản xuất quy mô lớn và mạnh dạn đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại. Đây cũng là “điểm tựa” vững chắc, tạo đòn bẩy giúp vùng phát huy tối đa lợi thế về lúa gạo, trái cây và thủy hải sản, đưa nhiều mặt hàng vươn lên dẫn đầu thế giới. Đời sống và thu nhập của nông hộ không ngừng cải thiện, diện mạo nông thôn đổi mới mạnh mẽ".
ThS. Trần Trọng Triết - Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15
Theo chia sẻ của ông Huỳnh Văn Thòn - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời, những năm qua, nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi từ các ngân hàng đã đồng hành chặt chẽ cùng doanh nghiệp. Nhờ đó, Lộc Trời có thể cung ứng giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho nông dân ngay từ đầu vụ với mức lãi suất 0% và thu hồi vốn vào cuối vụ khi thu mua nông sản. Mỗi năm, diện tích liên kết sản xuất đạt khoảng 50.000 ha, trải rộng trên toàn tỉnh An Giang. Lộc Trời cũng chuẩn hóa nông sản thông qua việc xây dựng chuỗi giá trị bền vững và liên kết với hàng trăm nghìn nông hộ.
Ông Trần Văn Lô Ba - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Phú Thạnh (xã Chợ Vàm - tỉnh An Giang) cũng cho biết, Hợp tác xã được tỉnh giao sản xuất 50 ha theo quy trình của Đề án 1 triệu ha và được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1%. Nhờ đó, chi phí sản xuất giảm hơn 5 triệu đồng mỗi ha, còn lợi nhuận tăng thêm hơn 5 triệu đồng mỗi ha. Nông dân rất phấn khởi và cam kết sẽ mở rộng diện tích trong vụ đông xuân 2025 - 2026.
Gỡ rào cản, tạo bước chuyển mới cho nông nghiệp
Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp ĐBSCL vẫn đối mặt nhiều khó khăn, thử thách. Bản chất nông, thủy sản dễ hư hỏng, thiếu kho lạnh và tiêu chuẩn đồng bộ khiến doanh nghiệp khó bảo quản, khó mở rộng thị trường xuất khẩu bền vững.
Cùng với đó, ĐBSCL giữ vị trí chiến lược, là một trong những vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất cả nước với các sản phẩm chủ lực như lúa gạo, trái cây và thủy hải sản. Tuy vậy, khu vực này cũng đang đối mặt nhiều thách thức lớn do tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, tình trạng hạn mặn diễn biến phức tạp và sự suy thoái đất do canh tác kéo dài.
Ông Nguyễn Hoàng Minh - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Rau quả thực phẩm An Giang (Antesco) cho biết, các mặt hàng nông, thủy sản, đặc biệt là tôm và rau quả khó chuẩn hóa do tính chất dễ hư hỏng, mùa vụ và thiếu dữ liệu công khai về tồn kho, cũng như giá cả. Việt Nam vẫn chưa có hệ thống dữ liệu tập trung, chuẩn mực, truy xuất nguồn gốc chưa đồng bộ.
Qua đó, lãnh đạo Antesco cho rằng, giải pháp mang tính quyết định là xây dựng hệ thống dữ liệu minh bạch theo chuẩn quốc tế; đồng thời, chuẩn hóa sản phẩm theo các tiêu chuẩn như: GlobalGAP, ESG hay Carbon Footprint... Bên cạnh đó, cần đầu tư đồng bộ vào kho lạnh, đồng bộ hệ thống tài chính, ngân hàng, hải quan và logistics.
"Cần các chính sách ưu đãi tín dụng và thuế cho những doanh nghiệp tiên phong tham gia thí điểm ở các mặt hàng có thị trường ổn định như cá tra, tôm và trái cây" - ông Minh mong mỏi.
Còn theo ông Trần Trương Tấn Tài - Tổng Giám đốc Công ty TNHH Lúa gạo Việt Nam, trong bối cảnh thị trường lúa gạo thế giới được dự báo vẫn trong tình trạng cung lớn hơn cầu, Việt Nam cần tích cực tìm kiếm và mở rộng các thị trường mới. Tuy nhiên, để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường cao cấp như Nhật Bản, châu Âu hay Mỹ, các doanh nghiệp cần đầu tư lớn hơn vào việc chuyển đổi sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng cao và an toàn.
Trong đó, việc giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp không chỉ giúp ổn định giá nội địa, mà còn là động lực quan trọng để doanh nghiệp chủ động hơn trong chiến lược xuất khẩu, đảm bảo vị thế của hạt gạo Việt trên thị trường quốc tế.
Bồi đắp những “mùa vàng” mới cho Đồng bằng sông Cửu Long
Từ những cánh đồng lúa bạt ngàn, đến những nhà máy chế biến gạo xuất khẩu, vườn cây ăn trái trĩu quả hay vùng nuôi cá tra mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước đều là minh chứng sinh động cho hiệu quả của dòng vốn dành cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nguồn vốn ấy không chỉ nuôi dưỡng khát vọng làm giàu chính đáng của người dân, mà còn góp phần xây dựng nền nông nghiệp ĐBSCL phát triển xanh, hiệu quả và đậm bản sắc.
Là ngân hàng luôn sát cánh và đồng hành cùng doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ hợp tác trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ông Nguyễn Văn Hoàng - Phó Giám đốc ngân hàng Agribank Chi nhánh An Giang chia sẻ, đến nay dư nợ tín dụng tại đơn vị trên 22.000 tỷ đồng, trong đó, trên 70% dư nợ chủ yếu tập trung hướng dòng vốn tín dụng đầu tư vào ngành hàng sản xuất chủ lực có thế mạnh tại địa phương như: lúa, gạo, thủy sản và trái cây đặc sản.
Ngân hàng cũng chủ động đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp chế biến lúa gạo, cá tra, trái cây, góp phần hình thành và mở rộng các chuỗi liên kết sản xuất theo hướng giá trị gia tăng.
Các Ngân hàng Nhà nước chi nhánh khu vực đang tiếp tục thúc đẩy tín dụng nông, lâm, thủy sản, tháo gỡ nút thắt cho vay nông nghiệp công nghệ cao; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, ứng dụng công nghệ và phấn đấu giảm lãi vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Qua đó, tạo nền tảng cho không gian phát triển rộng mở của ĐBSCL sau sáp nhập.












