Tình quê
Trong suốt cuộc đời, bố vẫn dạy chị em chúng tôi rằng: Sau tình nghĩa gia đình, tình máu mủ ruột già thì tình quê hương là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất. Để rồi khi mái tóc pha sương, hai tiếng 'quê hương' vẫy gọi thì dù ở góc biển chân trời, con người ta đều hướng về nơi chôn nhau, cắt rốn.

Ảnh minh họa: Internet
Nằm độc lập giữa bốn phía là cánh đồng và dòng sông uốn khúc, làng Đún Nội quê tôi nổi lên như một ốc đảo xanh um với vài trăm nóc nhà thấp thoáng. Khi đông nhất, người làng cũng chỉ trên dưới một nghìn. Nhưng ở khắp các tỉnh, thành và nhiều nơi trên thế giới đều có người làng tôi sinh sống. Họ ra đi vì miếng cơm manh áo, vì thỏa chí công danh, vì lấy chồng, lấy vợ hay đơn thuần, ra đi cũng chỉ vì để thoát khỏi lũy tre làng cho bằng bè, bằng bạn... Những năm cuối thập kỷ bảy mươi, đầu tám mươi, người làng tôi lũ lượt đưa nhau đi “khai hoang vùng kinh tế” mới trên Tây Bắc. Họ đi theo tiếng gọi về một vùng quê giàu tài nguyên, đất đai trù phú. Nhưng khi đến nơi, trước mắt họ chỉ là bạt ngàn những cánh rừng, những quả đồi cây cỏ dại um tùm, chưa từng có bàn chân người đặt đến. “Dở đi mắc núi, dở lại mắc sông”, chẳng còn sự lựa chọn nào khác, họ đành bổ những nhát cuốc đầu tiên khai phá vùng đất mới. Rồi trong gian khổ, họ cố kết lại cùng nhau, kiên trì bám trụ.
Bảy năm trước, trong khi đi sưu tầm tư liệu để soạn thảo gia phả dòng họ, tôi có dịp đi thăm những người bà con đi khai hoang năm ấy. Ở giữa vùng đồng bào dân tộc, những người làng tôi có cuộc sống khấm khá, no đủ hơn xung quanh. Họ ở trong những ngôi nhà mặt tiền kiên cố, bên những nương chè, những quả đồi xanh mát. Nhưng có một điều, thế hệ thứ hai, tức là những người con được sinh ra từ “vùng kinh tế mới” biết không nhiều về những câu chuyện quê hương. Điều đó cũng một phần do đường sá xa xôi cách trở, thông tin qua lại những năm trước đây còn rất nhiều hạn chế...
Khoảng những năm chín mươi, người làng tôi tiếp tục có cuộc di cư vào Tây Nguyên và thành phố Hồ Chí Minh. Lần này là hoàn toàn tự nguyện, nơi đó có những người làng tôi đang làm ăn thành đạt. “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, một vài người, vài gia đình đi theo sự sắp xếp của người thân, rồi họ hàng bè bạn rủ nhau cùng đi thành từng nhóm, từng đoàn. Vào Tây Nguyên: Người đi làm thuê, người làm công chức, giáo viên, nhiều nhà gom hết tài sản mang theo tậu vườn rẫy. Còn ở thành phố Hồ Chí Minh, họ trở thành những người công nhân, bảo vệ trong các nhà máy xí nghiệp, các công ty giày da, bao bì xuất khẩu, các công trường xây dựng, một số ít trở thành kỹ sư, lãnh đạo quản lý doanh nghiệp.
Tuy không nhiều người thực sự đổi đời như ước mơ ngày bước lên những chuyến xe chật ninh ních người vào miền Nam lập nghiệp, nhưng so với thế hệ di cư trước đây, cuộc sống vật chất của họ cũng có phần khấm khá. Một số người có điều kiện mua nhà định cư nơi đất mới. Số còn lại, đông hơn vẫn đi đi về về, để bố mẹ trông nom con đi học. Nhờ vậy, mối liên hệ với làng quê vẫn còn nhiều gắn bó.
Đầu năm hai ngàn, lần đầu tiên trong đời đặt chân lên mảnh đất cuối trời Tổ quốc, tôi cứ nghĩ mình là người đầu tiên trong làng đến nơi đây. Nhưng chỉ ít tháng sau, tôi được biết có một người cô ở ngay sát nhà tôi đã làm dâu ở ấp Bà Khuê, xã Viên An, huyện Ngọc Hiển từ mấy chục năm về trước. Hồi xưa, người chồng ra quê tôi công tác rồi lấy bà đưa vào Cà Mau sinh sống. Còn bao nhiêu các bác, các chú người làng tôi đã đi theo những đoàn tàu không số vào cửa Bồ Đề, Rạch Gốc, vào các chiến trường miền Nam. Có người may mắn sống sót trở về, có người ở lại vùng vừa giải phóng rồi sinh cơ lập nghiệp.
Chiều quê, trong tiết lập Thu, khi ánh hoàng hôn hắt vàng từ phía cuối làng trở lại. Tôi cùng các con rong chơi ngoài cánh đồng lúa đang kỳ vào hạt. Không còn bóng dáng lũy tre. Làng tôi hiện lên với những ngôi nhà khang trang kiểu cách, nhấp nhô bên những ngọn cau cao vút. Cha con tôi gặp một cụ già râu tóc bạc phơ đang chậm rãi bước trên con đường chạy thẳng từ bờ ao Đình lên gồ Đống Lớ - nơi giáp ranh với làng bên cạnh. Đã mấy chục năm rồi cụ mới trở lại quê hương. Cảnh vật thay đổi nhiều quá. Càng nhìn, càng nghe, cụ càng bỡ ngỡ. Còn đâu những cánh đồng Vung Vang, Tế Điền, Đất Cát, Ba Gồ... - nơi tuổi thơ cụ vừa làm đồng, vừa mò cua, bắt cá. Còn đâu những dòng máng, những ngọn ngòi Cun Cút, Cô Nhị, những bờ vùng bờ thửa với bao nhiêu những câu chuyện ngày cắt cỏ chăn trâu. Thay vào đó là những cánh đồng phẳng phiu, màu mỡ, những máng nước và đường bê tông thẳng tắp. Ngước đôi mắt già nua, trĩu nặng, cụ chỉ còn biết ước ao, nếu một mai mình trở về cát bụi, mong được về đây trong đất mẹ yêu thương.
Tôi cũng như bao người con rời làng, xa xứ. Mười tám tuổi, tôi lên đường nhập ngũ. Rồi cuộc sống nhà binh đưa tôi rong ruổi khắp mọi miền đất nước. Gần ba mươi năm sau, tôi mới được trở về sống thời gian dài trong chính ngôi nhà và mảnh đất quê hương. Đó là khi tôi ở nhà chịu tang bố mình. Cũng chính trong khoảng thời gian này, tôi mới cảm nhận thật rõ hai tiếng “tình quê” ấm áp nghĩa tình.
Ngày bố tôi đột ngột ra đi, mẹ con tôi chưa kịp chuẩn bị bất cứ điều gì. Dù chị tôi đã ngoài năm mươi tuổi, hai anh em tôi bôn ba ngoài đời, ít nhiều cũng trải qua những tình huống khó khăn trong cuộc sống, nhưng giờ đây bàng hoàng, ngơ ngác như bầy gà con mất mẹ. Đúng khi ấy, bà con dòng tộc, xóm làng mỗi người một tay, mỗi người một việc lo công việc nhà tôi như công việc nhà mình. Người đi liên hệ mua áo quan cho bố, người đi mời phường kèn trống, bát âm, người lo nấu nước ngũ vị hương thơm, chuẩn bị đồ khâm liệm, đồ tang. Những người trẻ khỏe thì chung tay dựng rạp, dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bàn thờ, sắp xếp người đào huyệt cùng các việc tang lễ khác. Một nhóm các chú, các anh chuẩn bị việc bếp núc và mọi mặt “công tác hậu cần”. Nhiều năm gần đây, quê tôi không còn tục ăn uống trong đám tang đối với những người phúng điếu. Chỉ con cháu trong nhà, những người làm giúp mới dùng “lưng cơm nhạt” cho ấm lòng nhà đám. Và cũng chỉ một lưng cơm nhạt thế thôi, dù công việc có nặng nhọc đến mấy, dù phải dừng mọi công việc làm ăn ở gần, ở xa để trở về giúp việc thì cũng chẳng ai tính toán, kể công.
Thấy tôi lóng ngóng thắt mảnh khăn tang, một người bác trong họ tận tình hướng dẫn rồi tự tay làm giúp. Trong giây phút ấy, tôi chợt nhận ra, bao nhiêu sự hiểu biết và kỹ năng sống của mình chẳng còn gì là quan trọng. Chỉ có những người quê với tình nghĩa gia tộc, tình làng nghĩa xóm mới giúp được mẹ con tôi trong bộn bề việc hiếu.
Thật may mắn trong cuộc đời này, dù đi xa nhưng chúng tôi vẫn được sống trong tình nghĩa ấm áp của bà con làng Đún Nội quê hương. Thế nên dù có đi đâu, thì mỗi người nên giữ gìn và kết nối với nơi mình sinh ra, bởi đó là chốn thanh bình luôn dang vòng tay đón chúng ta trở về.
Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/tinh-que-post495053.html